Chương 13
Đại hội Nhà
văn lần thứ 4
Giữa lúc không khí
đổi mới trong Văn nghệ đang sôi nổi khắp nơi, đặc biệt là cao trào chuẩn bị cho
Nghị quyết của Bộ Chính trị về văn hóa văn nghệ lên đến đỉnh cao thì ngày
23-6-1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra thông tư về việc các Hội Văn học nghệ
thuật Trung ương tổ chức đại hội.
Thông tư do anh Đỗ
Mười, Ban Bí thư ký, viết:
“Ban Bí thư đồng ý
để các Hội văn học nghệ thuật Trung ương tổ chức đại hội toàn quốc trong năm
1988. Trên cơ sở tinh thần nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, Đại hội các
Hội văn học nghệ thuật cần quán triệt sâu sắc tinh thần đổi mới – đổi mới tư
duy, đổi mới phong cách làm việc, đổi mới tổ chức và cán bộ, giải phóng năng
lực sáng tạo của giới văn học nghệ thuật, nhằm tích cực tham gia vào việc giải
phóng sức sản xuất, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xã hội do Đại hội VI
của Đảng đề ra.
Đại hội các hội kỳ
này phải đánh dấu một chặng đường mới trong sự phát triển văn học nghệ thuật và
trong tổ chức hoạt động của các Hội sáng tạo ở nước ta”.
Nếu ai chú ý sẽ
thấy những nội dung chính của Thông tư là những quan điểm cốt lõi của Nghị
quyết 05: “Đổi mới tư duy, đổi mới phong cách làm việc, đổi mới tổ chức cán bộ,
giải phóng năng lực sáng tạo của giới văn học nghệ thuật”. Nó được thông qua dễ
dàng trong không khí cởi mở của Đại hội VI.
Cùng với các Hội
khác, Hội Nhà văn sôi nổi, khẩn trương chuẩn bị cho Đại hội lần thứ 4 của mình.
Từ Đại hội Nhà văn lần thứ 3 năm 1983 đến nay đã hơn 4 năm. Không chỉ riêng độ
dài thời gian đã chín mùi mà nhiều vấn đề khác về cơ chế tổ chức, về sáng tác,
lý luận phê bình đang được đặt ra một cách bức xúc dưới ánh sáng của Nghị quyết
Đại hội Đảng VI.
Bốn năm qua, đặc
biệt là từ năm 1986, nền văn học nước nhà đã có những khởi sắc mới. Những sáng
tác của Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Văn Tuấn, Phùng Gia Lộc, Hoàng
Hữu Các, Nguyễn Khắc Trường, Trần Huy Quang... làm sôi động diễn đàn văn học.
Để gây men không
khí chuẩn bị tiến tới Đại hội, nhà văn Nguyên Ngọc, Tổng biên tập báo Văn Nghệ
có sáng kiến mở mục “Văn Nghệ phỏng vấn” để trao đổi những vấn đề sẽ đặt ra
trong Đại hội, với 2 câu hỏi:
1. Thông tư của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về Đại hội các hội văn học nghệ thuật Trung ương nêu
rõ: “Các đại hội cần đánh giá một cách toàn diện, khách quan, trung thực tình
hình phát triển của ngành và hoạt động của Hội trong thời gian qua”.
Trên tinh thần đó,
đồng chí nhìn nhận như thế nào về nền văn học của ta từ Cách mạng tháng Tám đến
nay, qua các thời kỳ, nhất là hiện nay; cái đã đạt được, cái chưa đạt được, chỗ
mạnh, chỗ yếu, tiềm năng, triển vọng... của nó?
2. Thông tư của
Ban Bí thư cũng nêu rằng “Đại hội cần quán triệt sâu sắc tinh thần đổi mới -
Đổi mới tư duy, đổi mới phong cách làm việc, đổi mới tổ chức và cán bộ, giải
phóng năng lực sáng tạo của giới văn học nghệ thuật”.
Theo đồng chí để
thực hiện được sự “giải phóng” đó cần tháo gỡ ở khâu nào?
“Văn
Nghệ phỏng vấn” vừa đưa ra lập tức được sự hưởng ứng nhiệt tình của các nhà
văn, nhà hoạt động văn hóa, làm cho phong trào văn học càng thêm sôi nổi, và
báo Văn Nghệ trở thành một diễn đàn có sự hấp dẫn mới.
Có
những bài vừa sâu sắc vừa thú vị, đem đến cho người đọc những cảm thụ mới về
nhiều lĩnh vực đáng được mọi người quan tâm:
Với “Câu chuyện cũ
mới”, nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện, nổ phát súng đầu tiên trong mục này:
“Vụ đổi tiền tháng
9-1985 quả là một tai họa ập đến với nhân dân ta.
Nhưng nói như một
ngạn ngữ phương Tây bao giờ tai họa cũng có mặt hay của nó.
Lần đầu tiên, ở
nước ta mọi người đều thấy, lãnh đạo tối cao cũng có thể phạm những sai lầm
nghiêm trọng. Trước đó, một số người đã suy nghĩ như vậy, nhưng cái mới là nay
số đông bắt đầu nghĩ như vậy. Và dĩ nhiên, tiếp theo là, từ rày, ta không thể
khoán trắng cho lãnh đạo suy nghĩ, động não thay thế cho mọi người. Quốc gia
hữu sự ai cũng có trách nhiệm không những gánh vác bằng chân tay, mà bằng cả
trí óc nữa…
Anh viết tiếp:
Chưa bao giờ,
người cầm bút (và máy ảnh hay quay phim) thấy rõ vinh quang và trách nhiệm của
mình như hiện nay. Phản ánh, đúc kết dư luận, nói lên những đòi hỏi và nguyện
vọng của nhân dân nổi lên thành nhiệm vụ hàng đầu của các mê-đi-a, chứ không
chỉ dành để phổ biên những chỉ thị của trên. Ngày nay, thông tin hàng ngày là
món ăn tinh thần của toàn dân, quan trọng không kém so với cơm gạo. Đứng vào
những hàng người kéo dài đợi mua báo hay tụ tập chung quanh loa truyền thanh
khi cả nước hay đia phương có một tin gì quan trọng mới thấy rõ sự khát khao
của quần chúng. Các mê-đi-a của chúng ta đang trên đà dân chủ hóa, đó là một
trong những chìa khóa mở ra con đường tiến lên của dân tộc.
Quá trình dân chủ
hóa thể hiện qua mấy khâu:
- Đầu tiên là nhận
thức của số đông là mỗi người có quyền làm công dân, có quyền suy nghĩ, nói lên
ý của mình, không ai được xâm phạm những quyền cơ bản mà hiến pháp và pháp luật
đã quy định,
- Báo chí trở
thành công cụ sắc bén của dư luận,
- Các cơ quan dân
cử như Quốc hội, các đoàn thể làm tròn nhiệm vụ là thay mặt cho dân, chứ không
làm “cây cảnh” nữa,
- Những cơ quan tư
pháp giữ tính độc lập xử theo pháp luật, không chấp nhận một sức ép nào bất kỳ
từ đâu.
Bốn khâu này cần
hoạt động đồng bộ, khâu này hỗ trợ khâu kia. Và dân chủ ở thành phố phải hỗ trợ
cho dân chủ ở nông thôn và ngược lại. Quên mất nông thôn, để một nông thôn rộng
lớn (80 phần trăm dân số) phi dân chủ bao vây các thành phố thì chóng chầy những
mầm mống dân chủ chớm nở ở thành phố cũng bị bóp nghẹt. Chúng ta còn phải lâu
dài “tập sự dân chủ”, tập làm quen với chế độ dân chủ, dưới làm quen với việc
tranh cãi với trên, trên tập nghe ý kiến của dưới mà không nghĩ rằng đó là “phạm
thượng”, là “chống Đảng”…
Thật là một trùng
hợp ngẫu nhiên khi đúng vào dịp này, anh Nguyễn Văn Linh lại có bài “Những việc
cần làm ngay” đăng trên báo Nhân dân ngày 10 tháng 7 năm 1987. Nội dung của bài
tưởng như chỉ nói về chính trị, về kinh tế và tiêu cực nói chung, nhưng xét về
ý nghĩa thúc đẩy phong trào đổi mới toàn diện, tôi thấy bài này cũng hoàn toàn
thích hợp với mục “Ý kiến chúng tôi” của “Văn Nghệ phỏng vấn”. Do đó, anh
Nguyên Ngọc đã cho đăng lại bài này trên báo Văn Nghệ:
“Những việc cần làm ngay
Sau vài bài đầu
cũng “Những việc cần làm ngay” có đồng chí khuyên tôi nên thôi, vì lo:
- Những bài tôi
viết sẽ không được hưởng ứng, lúc đó mới thôi viết, thế là đánh trống bỏ dùi,
đã vô ích lại mất tín nhiệm,
- Sợ tôi làm sao
biết hết, biết thật đúng mọi việc, sẽ có sự đôi co phản tác dụng. Hoặc viết ít
bài rồi hết đề tài, sẽ cũng là một thứ đánh trống bỏ dùi,
- Mới nói những
việc nhỏ, ắt có sự không bằng lòng, cho rằng chỉ nhằm từ vai xuống, còn đầu thì
chưa, hay không dám,
- Cũng có người có
trách nhiệm đã chỉ trích biết bao nhiêu việc cần làm, sao lại phải hăng hái
chống tiêu cực? Vài trăm tấn tỏi, mấy vị mang hộ chiếu ngoại giao đi buôn... có
gì là ghê gớm. Phê và tự phê công khai chỉ làm rối lòng dân, làm cản trở công
việc của lãnh đạo... (có lẽ cũng nên xem xét kỹ động cơ và thái độ của cách đặt
vấn đề theo kiểu này!).
Đành trái lời
khuyên, tôi vẫn viết tiếp vì thấy cần quá.
May thay: chỉ vài
ngày sau, dư luận rộng rãi khắp cả nước hưởng ứng bằng nhiều cách đúng đắn,
đáng mừng, đáng khâm phục:
- Nhiều Bộ trưởng,
thủ trưởng các đơn vị cho điều tra ngay các vụ việc nói về ngành mình, xử lý
nghiêm túc và cho đăng công khai trên báo, với tinh thần trách nhiệm và tôn
trọng công luận cao,
- Nhiều địa phương
từ Bắc chí Nam, cả cấp ủy cũng bàn, khuyến khích quần chúng góp phần với báo,
đài, cho đi kiểm tra kịp thời và đã phanh phui ra ánh sáng nhiều vụ tiêu cực
quá to, quá đau lòng, đụng đến cả một hệ thống cán bộ, cơ quan, có khi có cả ô
dù lớn che chở. Cấp ủy, ủy ban và các đoàn thể đã xử lý nghiêm cả về mặt Đảng
và đem truy tố trước pháp luật...
Nghị quyết Đại hội
VI của Đảng đã chỉ rõ: phải dùng sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa kết hợp
với sức mạnh của dư luận quần chúng để đấu tranh chống tiêu cực. Mong rằng
chúng ta sẽ làm theo đúng tinh thần của nghị quyết, và cũng là tinh thần câu
châm ngôn cổ truyền của dân tộc: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại
thành hòn núi cao”.
N.V.L sẽ vẫn tiếp
tục viết, và mong muốn cán bộ từ Trung ương xuống đến cơ sở, mong đồng bào
trong và ngoài Đảng tới đây sẽ tham gia ngày càng đông đảo cùng viết, cùng
phanh phui những việc mà N.V.L tôi không tài nào biết hết và biết chi tiết
được. Việc thôi không đủ, các cấp lãnh đạo phải xử lý nghiêm minh và công bằng
mới được. Ai xấu quá thì phải trừng trị. Ai có lỡ lầm nhỏ nhưng thực lòng cải
hối thì giáo dục lại thành người tốt. Khuyên nhau làm việc tốt, tôn trọng kỷ
luật, pháp luật.
Những việc này
phải chung tay mà làm một cách kiên trì mới thành công được. Phải vừa nghiêm
khắc, vừa độ lượng. Dạy bảo, phê bình nhau với động cơ trong sáng, tấm lòng
chân thành và ý thức trách nhiệm cao.
Báo chí từ Trung
ương đến địa phương, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình tiếp tục là diễn đàn
chung của Đảng và của nhân dân, là công cụ để thực hiện chủ trương “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, là phương tiện thông tin tới mọi người dân
thường, chẳng những thành thị mà phải đưa sâu vào nông thôn, những nơi xa xôi
hẻo lánh, trong đồng bào Kinh cũng như đồng bào các dân tộc.
Ánh sáng trong
lành phải được lan rộng, đẩy lùi và xua tan bóng tối”.
N.V.L
(Báo Nhân dân
ngày 10 tháng 1 năm 1987)
Dưới bài “Những
việc cần làm ngay” là bài “Về cái tiêu cực và cái tích cực” của Nguyên Ngọc,
giống như một “hợp đồng tác chiến” tuyệt đẹp:
“Cái Tiêu
cực và cái Tích cực
Những
ngày gần đây chúng tôi đang chứng kiến sự hình thành, hoặc đúng hơn sự khẳng
định một quyền lực mới trong xã hội, quyền lực của báo chí. Có lẽ, ít nhất là
kể từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, chưa bao giờ như bây giờ, báo chí lại có
vai trò năng động đến thế, lại tham gia trực tiếp, mạnh mẽ và có hiệu lực đến
thế vào các quá trình xã hội sôi động và phức tạp.
Tất nhiên điều đó
phản ánh một hiện tượng khác sâu sắc và to lớn hơn, to lớn hơn chính bản thân “hiện
tượng báo chí” nhiều: nó phản ánh quá trình dân chủ hóa đang diễn ra đầy khó
khăn, trăn trở nhưng quyết liệt và không gì ngăn nổi trong đời sống của đất
nước. Quyền lực của báo chí những ngày này, đó chính là quyền lực của nhân dân.
Đó chính là một cách - và quả là một cách khá hiệu lực - nhân dân dùng cái
quyền của mình đòi hỏi và tham gia trực tiếp vào công việc lập lại trật tự, lập
lại công bằng xã hội.
Đã bao nhiêu lần
chúng ta nói về cái khái niệm đẹp đẽ “nhân dân làm chủ”. Nhưng làm chủ bằng
cách nào vậy? Cái số đông và vì là số đông nên lại trừu tượng ấy có thể thực sự
làm chủ bằng cách nào? Thì ra nhân dân có thể làm chủ bằng công luận. Đó là sự
thức tỉnh mạnh mẽ của nhân dân, của xã hội ta…
Vậy nên, không có
gì phải lo sợ về “tỷ lệ thích đáng” giữa biểu dương cái tích cực và phê phán
cái tiêu cực trên báo chí. Bản thân việc nhân dân biết nắm lấy cái quyền lực
công luận của mình, và sử dụng nó ngày càng có hiệu quả để làm trong sạch cuộc
sống, là một điều tốt đẹp biết bao, tích cực biết bao”.
7-1987
Nguyên Ngọc
Bản thân tôi, với
cương vị Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương, chịu trách nhiệm trước Ban Bí
thư về kết quả của Đại hội các Hội, đặc biệt là Đại hội Nhà văn, tôi phải giành
nhiều tâm sức cho quá trình chuẩn bị đại hội.
Ngay sau khi có
Chỉ thị của Ban Bí thư, tôi đã phát biểu một số gợi ý có tính chất chỉ đạo
những nội dung chủ yếu của các Đại hội bằng bài báo đăng trên trang nhất báo
Văn Nghệ số 1236 ngày 11-7-1987 với nhan đề “Đổi mới Văn nghệ và Văn nghệ đổi
mới”.
“Khi nêu vấn đề
này, trước hết có câu hỏi cần trả lời: đó là trong khi cần đổi mới toàn diện
trên tất cả mọi lĩnh vực, vậy văn nghệ có cần phải đổi mới không? và văn nghệ
đổi mới thế nào? Chắc chắn không có ai nói rằng văn nghệ không cần đổi mới. Có
điều văn nghệ cần đổi mới thì văn nghệ trước đây có những gì yếu kém và sai
trái, có những gì lạc hậu lỗi thời? Chỉ có vạch rõ được những điều đó, ta mới
có thể có sự đổi mới. Muốn tìm được những điều đó, ta phải tìm ở nhiều khâu:
- Trước hết ở khâu
bản thân văn nghệ sĩ, những chủ thể sáng tạo, là lực lượng sáng tác,
- Tiếp theo là phải
xem xét những tác phẩm đã có đánh giá chung được tình trạng hay là trình độ chất
lượng các tác phẩm. Phải xem xét từ trình độ nội dung tư tưởng, đến trình độ
nghệ thuật, phải có quan niệm chính xác về chất lượng nghệ thuật, để có căn cứ
và tiêu chuẩn đánh giá,
- Lại cần phải xem
tình trạng phân phối và phổ biến các tác phẩm trên các mặt xuất bản, biểu diễn,
triển lãm, tiêu thụ các giá trị nghệ thuật từ quan điểm, quan niệm cho đến các
cơ chế tổ chức và kinh tế tài chính,
- Sau nữa phải xem xét đến sự chuyển
biến của công chúng, những thị hiếu lạc hậu, tầm thường, những nhu cầu mới, tâm
lý mới, thị hiếu mới. Phải có sự đối chiếu mọi hoạt động sáng tác và phân phối
nghệ thuật với những nhu cầu chính đáng và thị hiếu phát triển của công chúng,
phân tích được chỗ phù hợp và chưa phù hợp. Có như thế mới thấy chỗ cần đổi mới…”.
Ngoài việc đi dự
và phát biểu tại các đại hội, tôi còn được mời đến dự các đại hội các hội Văn
học nghệ thuật địa phương.
Ngày
13 tháng 9 năm 1987, tôi vào thành phố Vinh dự Đại hội lần thứ IV ngành văn học
nghệ thuật tỉnh Nghệ Tĩnh. Tại đây, tôi phát biểu một bài dài nhưng chủ yếu
xoay quanh những nội dung mà chỉ thị của Ban Bí thư đã nêu ra:
“Trước đây, khi
làm công tác quân sự, rồi chính trị trong quân đội, do nhiệm vụ, tôi thường hay
đi nói chuyện. Được đi nhiều nơi, gặp gỡ chuyện trò với nhiều tầng lớp, thật
thú vị. Và gần đây, khi từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên đều sôi nổi bàn
luận về việc đổi mới tư duy, tôi lại càng thấy những cuộc gặp gỡ nói chuyện,
nói rồi nghe, nghe, nói, làm rồi lại nói... thấy vỡ ra nhiều điều, tôi càng
thấy phấn khởi và thú thật là càng... thích nói chuyện!”
Bài nói chuyện có
mấy ý như sau:
“Có thật là văn
nghệ cũng cần phải đổi mới không nhỉ? Đặt câu hỏi này ra trong tình hình đang
tiến triển của sự đổi mới toàn diện trên cả mọi lĩnh vực xem ra có vẻ “hợp thời”
đấy! Nhưng nên nhớ sự hợp thời ở đây hoàn toàn không phải là cái “mốt”, là sự “chả
nhẽ” hình thức nào, mà là sự đổi mới dứt khoát phải có, vô cùng cần thiết và
không thể khác! Có người còn muốn rõ ràng hơn, cụ thể hơn liền dùng cặp từ “giải
phóng” để nói về sự đổi mới, như “giải phóng tiềm năng sáng tạo”... chẳng hạn.
Giải phóng! Thế
thì trước đây ta bị tù hay sao mà nay đòi giải phóng? Cố nhiên chẳng ai hiểu
theo nghĩa như thế, nhưng quả thực trước đây trong văn nghệ chúng ta đã có
những yếu kém và sai trái, có những cái lạc hậu và lỗi thời, đã hạn chế tiềm
năng sáng tạo mà nay phải đổi mới tháo gỡ để mở ra một thời kỳ phát triển mới,
một chặng đường cách mạng mới cho sự hoàn thiện.
Không nên kiêu
ngạo và huyễn hoặc mình, nhưng người nghệ sĩ chân chính cần ý thức được vị trí
cao quý của mình trong nền văn hóa của dân tộc và trong tình cảm của nhân dân.
Có lần tôi làm trưởng đoàn một đoàn trong đó có các văn nghệ sĩ xuống thăm một
địa phương. Khi giới thiệu đoàn với những chức danh lãnh đạo và hành chính thì
công chúng phản ứng bình thường. Nhưng khi giới thiệu các văn nghệ sĩ với những
tác phẩm tiêu biểu và quen biết của họ, thì công chúng xôn xao hẳn lên. Họ ùa
lại với văn nghệ sĩ, xem mặt, xin chữ ký, đòi chụp ảnh chung, đòi hẹn gặp lại,
v.v... Như vậy nhân dân thực sự mến yêu các văn nghệ sĩ và mến yêu tác phẩm của
họ với một tình cảm xứng đáng, một tình cảm thật sự vô tư mà sâu sắc. Có địa
phương, nhân dân còn đòi dựng tượng các ông nhạc sĩ đã có bài hát tuyệt hay về
quê hương... Thế đấy!”.
Trong mục “Ý kiến chúng tôi” của Văn Nghệ phỏng vấn có hai bài tôi rất thích và được đông đảo bạn
đọc chú ý đó là bài của anh Trần Bạch Đằng và anh Nguyễn Khải. Có nhất trí hoan
nghênh tất cả hay không tôi không biết, có thể nói nội dung hai bài này đã phản
ánh được không khí và tâm tư tình cảm của giới văn học trong quá trình chuẩn bị
cho Đại hội...
Bài viết của anh
Trần Bạch Đằng viết từ tháng 10 năm 1987, mãi đến tháng 4 năm 1988 mới được
đăng trên báo Văn Nghệ số 1278 dưới tiêu đề “Phiếm luận về Văn học nghệ thuật”
có những suy nghĩ thật mới và thật mạnh mẽ:
“Cuộc sống thì
nhiều mặt, sôi động. Qua rồi thời kỳ “tô hồng, bôi đen” thô sơ và lộ liễu. Bây
giờ, trách nhiệm của nhà văn định giá trị của nhà văn. Tất nhiên, còn tài năng,
song nói như thế nào đây về hai chữ “tài năng” gọn gãy lại cực kỳ rối rắm. Ta
đành bằng lòng đồng hóa “tài năng” với “khả năng” vậy. Và ta hãy cổ vũ mọi
người sáng tác, thậm chí chưa nói vội chữ sáng tác kênh kiệu, mà viết và vẽ, mà
làm nhạc, mà dàn dựng phim, tuồng, kịch... Trên một cái nền xum xuê, của nào
đứng được qua sàng lọc của người thưởng thức và thời gian, của ấy là sản phẩm
quý và người đẻ ra sản phẩm quý nhất định có tài. Đôi khi, dùng một lăng kính
nào đó, sự phán xét vội vàng về tài năng bóp chết tài năng đích thực…
Trong mọi nỗi
buồn, nỗi buồn day dứt chúng ta hơn cả là cảnh thiếu trung thực của người sáng
tác lẫn người phê bình. Né tránh cái đúng, cái cần ủng hộ, né tránh cái sai,
cái cần phê phán... chúng ta có thể thông cảm được bởi những kiềm tỏa rất phi
lý. Nhưng, chuyển cái sai thành cái đúng, chuyển cái đúng thành cái sai thì là
điều không sao biện bạch nổi. Tiếc thay, vừa qua, không phải không có những
chuyện trái khoáy. Nền văn học nghệ thuật của ta thấp xuống vì ba thứ lộn xộn
lẽ ra tránh được ấy...
Anh Thái Duy thuật
cho tôi nghe một câu chuyện vui. Lúc anh làm báo Cứu Quốc, có viết một bài tố
cáo một cán bộ cấp huyện bê bối về tiền bạc hay về một cái gì đó không sạch sẽ
lắm. Anh vào Nam chiến đấu một số năm, trở ra làm báo cũ, đến tỉnh kia xin gặp
cán bộ có trách nhiệm thì người tiếp anh là... ông cán bộ cấp huyện độ nọ, bây
giờ lên chức to hơn; anh lặng lẽ rút lui, hú ba hồn chín vía!
Nếu không có tư
trào đổi mới – kể cả một số người chỉ bán rao đổi mới – thì Bên kia bờ ảo vọng khó sinh đẻ, Lời khai của bị can sẽ là lời... phản
tỉnh (có thể giả bộ của người viết)…
Lý luận cơ bản thì
không có gì phải tranh luận, nhưng lý luận vào thời kỳ trở mình hiện nay quả
đáng được lật mặt nọ mặt kia; lý luận văn học càng cần đặt ra để tiến tới sự
xác lập thống nhất..
Nên chấm dứt những
kết luận có vẻ khẳng định mà kỳ thực chưa đủ sức thuyết phục. Tôi nêu ví dụ:
các bài Thiên Thai, Suối Mơ, Đàn Chim Việt... của Văn Cao
bị cho nhãn “nhạc vàng”, trong khi Đời
cô Lựu của Trần Hữu Trang, Lỡ bước
sang ngang của Nguyễn Bính... tuy chẳng thể nào “đỏ” được, vẫn được ca
ngợi. Đâu là chỗ nhất quán? Và chúng ta trầm trồ Sô-panh, khen đáo để Đô-stôi-ép-xki,
cả Héc-to Ma-loi, cả Con-nan Doy-le thì
lại e dè Buồn tàn thu, Làm đĩ, Cha con nghĩa nặng, Mai Hương
và Lê Phong... Ngay văn học cổ cũng vậy, chúng ta cho in bài điếu chiến sĩ
trận vong của Nguyễn Văn Thành nhưng cấm bài văn tế Võ Tánh và Ngô Tòng Châu
của Đặng Đức Siêu (hay Vũ Lượng?). Thiếu nhất quán là một cách đánh giá, tùy
tiện là một cách đánh giá khác”.
Những lời cuối
cùng của Trần Bạch Đằng trong bài viết có sức vang lớn:
“Chúng ta báo
động về xuất bản... về truyện vụ án, v.v.. Nhưng cái đáng báo động hàng đầu là
một chính quyền do Đảng vô sản phụ trách đất nước hoàn toàn giải phóng 13 năm
rồi lại chưa có chính sách về quyền lợi của nhà văn, nghệ sĩ - những người lao
động vất vả - Tôi xin kết thúc bằng lời kêu cứu của giới văn nghệ”.
Nguyễn Khải, trong
bài “Nghề văn, nhà văn và Hội nhà văn” giống như một lời tâm sự đối với các
đồng nghiệp của mình trước ngưỡng cửa bước vào Đại hội 4 nhà văn có những đoạn
như sau, đọc thật lý thú và sâu sắc:
Chúng ta thử xem
xét trong đại hội lần này những vấn đề gì sẽ được giới ta quan tâm nhiều. Vẫn
là những chuyện về nghề nghiệp, tôi nghĩ thế. Cái nghề văn là nghề của tâm hồn.
Cái nuôi sống tâm hồn phải là tự do chứ không thể là cái khác. Tự do sáng tác
là khắc khoải của người cầm bút, cả trẻ, cả già. Vì có nhiều chuyện lắm. Nặn
tượng, vẽ tranh, viết nhạc không lời không đụng chạm trực tiếp với các nhiệm vụ
chính trị như một cuốn tiểu thuyết, như một vở kịch, như một bộ phim, vì phim
có kịch bản phim, có lời bình, có đối thoại, vẫn là chữ nghĩa. Ca khúc cũng
thế. Viết truyện lịch sử, viết truyện viễn tưởng cũng vẫn cứ đụng chạm. Đụng
chạm từng câu, từng chữ. Nên Hội Nhà văn thường được các cơ quan tham mưu của
Đảng về tư tưởng, về văn hóa văn nghệ chú ý nhiều hơn, chăm sóc nhiều hơn. Mà
là nên, là phải. Vì đã có biết bao nhiêu vụ việc đáng tiếc từ Hội Nhà văn mà
ra. Anh em nhà văn đều là những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ là
những chiến sĩ đứng ở hàng đầu chứ chưa bao giờ đứng ở hàng chót, sự nghiệp một
đời gắn bó với sự nghiệp cách mạng bằng tác phẩm của mình, chả lẽ lại luôn luôn
không đồng tình với Đảng?...
Từ sau khi có Nghị
quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI, anh em ta cũng hay bàn luận về những tác
phẩm của mình và của bạn bè, theo tinh thần dám nhìn thẳng vào sự thật, dầu nó
nhức nhối đến thế nào. Cái sự tự nhìn ngắm mình, nhìn ngắm những đứa con tinh
thần của mình vẫn là việc thường làm đối với mỗi nhà văn chứ chẳng phải đợi đến
bây giờ. Có thể nói gọn một câu: Là buồn nhiều hơn vui, khắc khoải nhiều hơn là
mãn nguyện. Thời gian còn được ôm ấp nó, nghĩ ngợi về nó và khoe khoang với bạn
bè là lúc vui nhất, chứa chan bao nhiêu là hy vọng, phen này tác phẩm được ra
mắt đồng nghiệp và công chúng thì phải biết,
phải biết... Cuối cùng sách đã ra cả tháng, cả năm cũng chả được mấy ai nhắc
nhở, vì nó vẫn như cũ, như những cuốn trước, có khi còn tệ hơn. Chúng tôi chả
đổ lỗi cho ai khi tác phẩm của mình không được như mong muốn, như lúc ấp ủ, như
lúc hy vọng. Mình kém tài thì mình đành chịu hận chứ còn biết trách ai,
có ai lại ngốc nghếch đi trách người khác cái công việc tự nguyện của mình. Vì
có ai buộc mình phải viết đâu, lại phải viết đúng như thế đâu. Có điều do cái
tài của mình kém nên cũng muốn dựa dẫm vào sự nghiệp to lớn của Đảng làm sự
nghiệp riêng của mình. Sự nghiệp chung vinh quang thì sự nghiệp riêng cũng có
phần vinh dự. Như những tác phẩm đã viết về cuộc chiến tranh giải phóng ba chục
năm chẳng hạn. Cho đến nay, nói gì thì nói, những tác phẩm văn học viết về
chiến tranh vẫn là thành công hơn cả…
Nói cho cùng kỳ
lý, không một ai có thể chú ý loại bỏ hoặc công nhận một tác phẩm văn học hoặc
một tác giả. Nói gì tới một giai đoạn văn học, một nền văn học. Cái số phận của
Vũ Trọng Phụng là một ví dụ rất tiêu biểu. Rồi ông Tản Đà. Rồi ông Hàn Mặc Tử.
Và vân vân. Vì các tác phẩm của họ vẫn âm thầm lắng đọng tâm hồn nhiều thế hệ
bạn đọc. Người xưa chúng ta còn biết tôn trọng huống hồ người của bây giờ, là
thầy mình, là đàn anh mình, là bạn bè mình, là chính mình nữa, làm sao mà sổ
toẹt. Nhưng chúng ta phải lựa chọn lại, phải đánh giá lại cho thật đúng. Nếu
mình đánh giá không đúng thì con cháu mình sẽ cười rồi họ cũng phải đánh giá
lại theo cách của họ, dĩ nhiên. Vả lại, chúng ta đã trưởng thành, chẳng lẽ
không biết nhìn lại một thời cho chính xác, cái hay và cái dở, cái mạnh và cái
yếu của một nền văn học thì mới tìm được ra một phương hướng xây dựng không đến
nỗi viển vông cho những năm tới...”
Cuối cùng Nguyễn
Khải tiên đoán:
“Đại hội Nhà văn
họp lần này sẽ là một đại hội rất vui, rất đẹp. Vì Đảng đã cởi bỏ cho chúng ta
rất nhiều vướng mắc, tin cẩn giao trách nhiệm qua Nghị quyết của Bộ Chính trị
về công tác văn hóa văn nghệ. Không có sự chuẩn bị nhẫn nại, tích cực, thông
cảm của nhiều nhà lý luận và phê bình văn học, của các cơ quan tham mưu của
Đảng về tư tưởng, về văn hóa văn nghệ thì không thể có Nghị quyết lịch sử lần
ấy. Mọi thiên kiến đều sai lầm là thế. Những người, những cơ quan mình vốn sợ,
vốn ngại phải tiếp xúc, rút lại, đã cứu cả giới mình ra khỏi bao nhiêu là phiền
muộn, đã “cởi trói” cho mình như hiện nay ta thường nói. Còn đòi hỏi gì hơn?
Riêng tôi, là một người viết, tôi không muốn đòi hỏi gì thêm nữa. Hôm qua khó
là thế mà còn viết được huống hồ bây giờ. Bây giờ nếu có lo là lo không đủ tài
để thả sức tung hoành, không đủ tiền để nuôi mình và nuôi vợ con trong một thời
gian dài ngồi viết, lại lo không đủ giấy để in sách của mình, của bạn bè cho
văn đàn được bừng khởi. Cũng vẫn là lo, nhưng là “cái lo trong vui mừng” trong
bàn bạc, trong hy vọng. Chỉ riêng một cái lo thôi cũng đã khác với hôm qua
nhiều lắm”.
*
* *
Qua
mục “Văn Nghệ phỏng vấn”, có thể nói Đại hội Nhà văn lần thứ 4 đã họp trước khi
Đại hội khai mạc. Đó chỉ là mới nói đến những ý kiến trên báo Văn Nghệ Trung
ương. Còn biết bao nhiêu ý kiến ở các Hội địa phương, ở các báo Văn nghệ địa
phương.
Thật là sôi nổi và
hào hứng. Tôi vừa nhận nhiệm vụ Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ mới hơn một năm
nay, nhìn thấy phong trào phát triển như thế này mà thấy phấn khởi vô cùng…
Rõ ràng Nghị quyết
Đại hội Đảng lần VI không chỉ mở đường cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội
mà cả trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, Đại hội VI cũng là chiếc đòn bẩy thần
kỳ.
Thành phố Hồ Chí
Minh là một trung tâm văn học nghệ thuật lớn cũng tích cực chuẩn bị cho Đại hội Nhà văn lần thứ 4. Ngày 24 tháng
10 năm 1987, Hội những người viết văn Thành phố Hồ Chí Minh đã họp Đại hội lần
thứ 2. Trên tinh thần đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI và quán triệt những
tư tưởng lớn trong bài nói của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tại cuộc
gặp gỡ với văn nghệ sĩ ngày 6 và 7 tháng
10 năm 1987. Đại hội lần thứ 2 những người viết văn Thành phố Hồ Chí Minh đã nghiêm
túc kiểm điểm lại hoạt động của mình trong thời gian qua và nghiên cứu bàn bạc
sâu sắc về những nhiệm vụ nóng bỏng đang đặt ra cho văn học hiện nay.
Đại hội cũng đã
bầu ra Ban Chấp hành mới của Hội, gồm 21 ủy viên và do nhà văn Nguyễn Quang
Sáng làm Tổng Thư ký.
Tại Đại hội, đồng
chí Võ Trần Chí, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh
đã có bài phát biểu quan trọng:
“Đại hội lần này
của Hội những người viết văn Thành phố được tổ chức trong một thời điểm đang có
nhiều khó khăn nhưng cũng có những điều đặc biệt thuận lợi.
Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI và các Nghị quyết 2, 3 của Trung ương gần đây mà nội
dung cơ bản là quyết tâm đổi mới, mở đường cho đất nước tiến lên, đang đi vào
cuộc sống và sẽ trở thành hành động cách mạng của hàng chục triệu quần chúng.
Với tư tưởng “lấy
dân làm gốc”, với thái độ “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ, nói đúng sự thật”,
cả nước ta đang dấy lên không khí dân chủ lành mạnh trước đây còn bị nhiều hạn
chế để tấn công vào mọi biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu bao cấp, mọi thói
quen bảo thủ trì trệ và mọi thói hư tật xấu đã và đang là lực cản chủ nghĩa xã
hội, nhằm làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy
Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
Không khí đó, quả
thật là một thận lợi để chúng ta đánh giá một cách nghiêm túc những gì đã làm
và chưa làm được, chỉ ra phương hướng đúng đắn và chấn chỉnh lại lực lượng,
nhằm đưa đội quân văn học hùng hậu của chúng ta tiếp tục xung trận, đóng góp
một cách xứng đáng nhất vào sự nghiệp đổi mới của đất nước…”
Tại Đại hội, đồng
chí Nguyễn Đình Thi, Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam đã phát biểu ý kiến:
“Tôi được điều may
và niềm vinh hạnh thay mặt Ban Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam đến dự Đại
hội lần thứ 2 của Hội những người viết văn Thành phố Hồ Chí Minh, trong bầu
không khí dân chủ, cởi mở và chân tình như tôi được thấy. Xin cho tôi được chia
vui với các đồng chí và các bạn về kết quả tốt đẹp của Đại hội này và được chân
thành chúc mừng các anh chị đồng nghiệp. Trong những năm qua, những người viết
văn Thành phố Hồ Chí Minh đã có đóng góp quan trọng vào nền văn học chung của
cả nước, với những tác phẩm mạnh bạo đi vào những vấn đề nóng bỏng, gai góc của
đời sống chúng ta; không ngại nhìn thẳng vào sự thật, chiến đấu chống những cái
xấu nhiều hình dáng, phát hiện những cái đúng, cái tốt mới nảy lên giữa tình
hình đất nước còn đang gặp biết bao khó khăn to lớn, sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội còn ở những bước đầu tiên, còn đang tìm tòi dò dẫm qua những vấp
váp không nhỏ. Những cây viết của Thành phố cũng không hề sao lãng nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc, trên mặt trận Tây – Nam
và góp phần xây dựng tình anh em chiến đấu với nhân dân Campuchia đang tiến lên
mạnh mẽ trên đường hồi sinh. Mặc dù tất cả chúng ta chưa bằng lòng với chính
mình và thấy rõ nhiều thiếu sót, nhiều chỗ còn yếu của văn học ta hiện nay,
nhưng tôi nghĩ rằng những thành tựu đó là rất rõ ràng, rất đáng quý và đã có
góp một phần tạo nên bầu không khí xã hội để đón nhận công cuộc đổi mới mà Đại
hội VI của Đảng ta đã đề ra.
Tuy nhiên, qua thử
thách của thời gian chưa dài lắm, chúng ta cũng thấy được là những tác phẩm
hay, có sức đứng lại lâu bền, có lẽ còn là hiếm hoi. Có những tác phẩm đã làm
ào ào dư luận một lúc vì những sự việc, những vấn đề mà người viết nêu lên,
nhưng rồi ít có người tìm đọc lại một lần thứ hai, thứ ba, phải chăng vì còn
thiếu những gì đọng sâu vào tâm hồn con người. Và cũng xin cho phép tôi nói lên
một điều tôi lo lắng: trong văn học ta, có sự “làm ăn” không được lành mạnh,
chạy theo những thị hiếu thấp kém, những chuyện giật gân nhằm ăn khách. Có
những quyển sách viết quá vội, quá ẩu và có cả những hàng “rởm”. Không biết tôi
nói như vậy có đúng không? Nếu tôi nói sai, tôi thành thật mong các đồng chí và
các bạn thứ lỗi và lượng thứ cho. Đó cũng chỉ vì tôi mong mỏi các tác phẩm văn
học được in ra ở Thành phố mang tên Bác sẽ luôn được bạn đọc cả nước đón đọc
với sự chờ đợi hào hứng.
Vừa qua, tại Thủ
đô Hà Nội đã diễn ra cuộc gặp gỡ của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với
gần 100 anh chị em văn nghệ sĩ và nhà văn hóa. Tôi chắc cũng như tôi, các đồng
chí và các bạn đều có rất nhiều niềm vui và nhiều suy nghĩ khi đọc bài phát
biểu của đồng chí Nguyễn Văn Linh trong cuộc gặp gỡ này. Những ý kiến của đồng
chí Tổng Bí thư Đảng ta đã tháo gỡ nhiều vướng mắc kéo dài đã quá lâu về phương
hướng sáng tác, cũng như về cơ chế quản lý đối với các hội văn học nghệ thuật
và các chế độ chính sách đối với lao động văn hóa nghệ thuật và đối với người
làm công việc sáng tạo văn nghệ. Tôi nghĩ rằng bài phát biểu của đồng chí
Nguyễn Văn Linh là cơ sở vững chắc và quý báu để các hội văn học nghệ thuật và
mỗi người cầm bút chúng ta phát huy được tốt hơn những tiềm năng sáng tạo của
chúng ta vì lợi ích của cách mạng.
Ở đây, tôi chỉ xin
nói lên một điều đã làm tôi xúc động. Đó là khi nghe đồng chí Nguyễn Văn Linh
nhắc nhở người cầm bút phải có trách nhiệm và sự suy nghĩ chín chắn và với
trách nhiệm đó, đừng bao giờ uốn cong ngòi bút của mình. Tôi nghĩ rằng tinh
thần ấy chính là tinh thần của Đại hội này của các đồng chí và các bạn.
Với ý nghĩ đó, xin
cho phép tôi một lần nữa chúc mừng thành công của Đại hội. Chúc những cây viết
của Thành phố Hồ Chí Minh, chúc cho mỗi chúng ta, những năm tới đây, mỗi người
đều sẽ có đóng góp cho văn học ta, xứng đáng với những truyền thống cao quý của
dân tộc ta, một nền văn học lớn đã có Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu
và từ Cách mạng tháng Tám, nền văn học Việt Nam ta đã bước sang một kỷ nguyên
mới với chân trời rộng mở hơn bao giờ hết. Ước mong những năm tới đây, những
tác phẩm văn học của chúng ta sẽ luôn đem đến cho bạn đọc hình ảnh chân thực
của đời sống xã hội và đời sống những con người trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội chân chính trên đất nước Việt Nam yêu quý. Ước mong văn học ta sẽ
đem đến cho tâm hồn mỗi con người ánh sáng của những lẽ phải lớn, của tình yêu
thương lớn, với niềm hy vọng và niềm tin dắt dẫn cho mỗi con người sống có nhân
cách và phát huy được sáng tạo của mình, để làm việc, để chiến đấu, xây dựng
một cuộc sống thật sự giải phóng cho nhân dân lao động và giải phóng cho mỗi
con người”.
Lại thêm một sự
trùng hợp ngẫu nhiên. Đúng thời gian chuẩn bị tiến tới Đại hội Nhà văn lần thứ
tư, nhà văn Nguyễn Tuân qua đời. Thông thường cái chết là một sự buồn đau, một
sự mất mát. Nhưng cái chết của Nguyễn Tuân, bên cạnh sự buồn đau, sự mất mát,
còn là sự đóng góp quan trọng làm cho nghề văn, nhà văn, Hội Nhà văn, nền văn
học nước nhà càng thêm cao quý. Đây là một trong những cái chết hiếm hoi làm
nảy sinh cuộc sống, làm đẹp thêm cuộc sống. Thông thường chỉ có cái chết của
các lãnh tụ, các bậc vĩ nhân mới có thể làm nên điều đó Nhưng ở đây, Nguyễn
Tuân, một hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam, người đã từng viết những bài “Phở”
nổi tiếng, bây giờ sống giản dị trong một căn nhà đơn sơ, thường đi xe đạp,
hoặc đi bộ với chiếc ba-toong ngất ngưởng trên đường phố, đã làm nên điều kỳ
diệu đó.
Cái chết của
Nguyễn Tuân thực sự đã trở thành một sự kiện văn học, một sự kiện xã hội, và
cũng là một sự kiện chính trị của Hà Nội, của cả nước lúc bấy giờ.
Đồng chí Lê Quang
Đạo, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Chủ
tịch danh dự Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cùng nhiều đồng chí
lãnh đạo của các cơ quan đoàn thể ở Trung ương và Hà Nội đã đến viếng nhà văn
quá cố.
Tới dự lễ tang, còn
có đại diện Đại sứ quán Liên Xô và một số đại sứ quán, cơ quan Thông tấn báo
chí nước ngoài. Bà Bác-ha-ra Crô-xát, phóng viên thời báo Niu-lóoc từ nước Mỹ
sang công tác ở Việt Nam ,
cũng đến viếng.
Có tất cả 172 đoàn
đại biểu từ Trung ương đến các địa phương đến viếng và dự lễ tang Nhà văn.
Nhiều tờ báo ở
Trung ương và các địa phương đã viết bài tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Tuân. Trong
số các bài đó, tôi thích nhất hai bài, một của Kim Lân, một của Nguyễn Minh
Châu.
Bài của Kim Lân
với tiêu đề “Anh là người sung sướng nhất”, viết:
Một lần anh em
xuất bản cử tôi đến gặp anh Nguyễn Tuân đề nghị anh sửa cho mấy chữ trong một
bài ngắn, anh vừa mới viết. Tôi đến gặp anh mà cứ lo ngay ngáy. Không biết
chuyện gì có thể xảy ra đây. Thôi thì cứ phải liều, cứ thực bụng mình nghĩ thế
nào cứ nói thế ấy. Tôi nói với anh: “Bài của anh gửi cho là hay lắm rồi. Chỉ có
mấy chữ, thật tình tôi thấy… thấy nó cũng chẳng làm sao... Thế nhưng nếu không
sửa... Anh thì anh chẳng cần gì, nhưng bọn tôi… bọn tôi thì...”.
Thế là anh Tuân
vui lòng sửa ngay. Đã đến cái nước đàn em chịu xuống bò thế thì ông anh tôi
không hẹp lượng.
Cắt được ít lâu,
không biết nghĩ ngấm nghĩ nghía thế nào ông anh tôi lại thấy tiếc, thấy đau...
Trong một buổi họp, giữa cơ quan Hội Nhà văn, anh chỉ vào mặt tôi mắng: “...Thằng
cha Kim Lân này có quyền chức nó cũng không phải vừa đâu, nó cắt của mình mấy
chữ! Đểu quá! Đểu quá!”.
Mặt anh đỏ bừng
lên, hai mắt sáng loáng, anh chống hai tay vào hai gối, cúi gập người xuống,
cái đầu rất to phơ phât mấy túm tóc bạc. Anh em có mặt trong cuộc họp cũng đều
ngồi lặng đi, chờ đợi.
Lúc sau anh Tuân
mới ngửng lên, nét mặt đã hòa dịu trở lại, anh mệt nhọc nói tiếp:
- Cũng là miếng
cơm manh áo cả thôi... Tôi mà làm biên tập lúc này, tôi cũng phải làm như vậy.
Anh ngừng lại một
lúc:
- Thì ra cái nét
chung của chúng ta lúc này là cái nét sợ, các ông ạ. Sợ đến cả những cái chẳng
đáng sợ nữa...
Anh khẽ lắc lắc
cái đầu:
- Sĩ khí nhà văn
chúng mình... Buồn quá... - Anh đứng dậy, chống ba-toong lừ đừ ra khỏi phòng
họp.
Tôi biết anh Tuân
không chỉ nói tôi. Anh nói cái gì ngoài tôi, trên tôi kia. Cái gì đó rất vô lý
và bí hiểm, từ lâu vẫn đè nặng trên tâm tư những người cầm bút...
Anh Nguyễn Tuân
ơi! Anh vốn là người yêu hoa, quý hoa. Trong phòng viết của anh quanh năm không
lúc nào vắng hoa. Hôm nay, hoa Hà Nội tề tựu cả ở đây, cùng chúng tôi, các bạn
bè thân thiết của anh, các bạn đọc xa gần từ lâu vẫn ái mộ anh, tất cả hoa, và
chúng tôi cùng đưa tiễn anh về nơi yên nghỉ cuối cùng.
Thế thì anh Tuân
ạ, trước sau anh vẫn đúng là người sung sướng nhất đời đấy!”.
Bài của Nguyễn
Minh Châu với tiêu đề: “Người cầm bút ấy...”
“Người cầm bút ấy
như trời sinh ra giữa hạ giới để minh chứng cho một lời phán truyền: “Ép dầu ép
mỡ” chứ không bao giờ ép được văn chương. Văn chương nói thật ra là một cái gì
rất riêng của từng cá thể nghệ sĩ, cá biệt đến độ dị biệt. Văn chương là một
cái gì có thể vô cùng, vô hạn độc đáo. Con người ấy vừa rời bỏ cái cuộc đời
trần thế vừa đầy thú vui, vừa đầy tục lụy và thô thiển mà ra đi. Nhà văn lão
thành mà đường tài hoa văn chương có một không hai ấy vừa vĩnh biệt làng văn
chúng ta – những con người hậu thế, đàn em đồng nghiệp của ông – một đám người
đông đúc, tuy không bao giờ nói ra, nhưng tôi dám đoán chắc có lẽ ông vừa yêu
mến, vun đắp vừa cười cợt sau hàng ria.
Đời người được
cưng chiều. Thời nào ông cũng được người đời hết mực nâng niu chiều chuộng, vì
lòng mến mộ một tài năng đích thực và đồng thời vì một khát vọng cháy bỏng của
mọi con người: được sống giữa cõi đời này với tất cả các bản ngã đích thực của
mình. Nhà thơ Chế Lan Viên một lần nói với tôi: văn chương ta mà tất cả đều là
Nguyễn Tuân thì mệt quá, nhưng thiếu đi một Nguyễn Tuân thì thiệt to quá, hỏng
lớn quá, thiếu đi nhiều quá!
Nhớ ngày nào
thuộc một thuở nào, ông còn khăn đóng áo dài ngất ngưởng ngồi uống rượu ở nhà
nhà thơ Tản Đà dưới Cầu Mới – và nhà thơ Tản Đà chống một thanh kiếm đứng sừng
sững lẫm liệt giữa phản, giảng giải cho Nguyễn Tuân nghe cái lý ở đời: người có
văn mà thiếu võ thường ươn hèn, kẻ có võ mà thiếu văn tất trở thành kẽ võ biền.
Rồi Tản Đà xuống tấn, trịnh trọng nâng lưỡi kiếm lên ngang mày, rồi bất ngờ
vung lưỡi kiếm sắc, múa kiếm vù vù cho Nguyễn Tuân xem (Rất tiếc là không hiểu
sao Nguyễn Tuân không đưa vào trong văn chương của mình những đường kiếm tuyệt
diệu của Tản Đà?)”.
Vô cùng xúc động
là những lời ghi của bạn bè, đồng nghiệp, của nhiều tầng lớp độc giả trong sổ
tang của Nhà văn. Những dòng chữ ghi vội vàng xuất phát từ tấm lòng, rất mộc
mạc, nhưng thật sâu sắc, đang thực sự là tiếng nói từ trái tim chân thành của
con người đối với Nguyễn Tuân nói riêng và văn học nói chung.
Thực sự cái chết
của Nguyễn Tuân đã làm cho vai trò, vị trí của nhà văn, của nền văn học được
nâng lên một tầm cao mới... Tôi biết có nhiều nhà văn đau buồn tiễn đưa Nguyễn
Tuân đến nơi an nghỉ cuối cùng, đồng thời cũng cảm ơn Nhà văn đã đem đến cho
mình niềm vinh quang, niềm tự hào của nghề văn, của nhà văn.
Có
thể nói sự ra đi của Nguyễn Tuân trong dịp này đã góp phần làm cho con đường đi
đến Nghị quyết 05, con đường đi đến Đại hội Nhà văn lần thứ 4 thêm đẹp, thêm
sinh động.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét