Anh T.V.,
Trước đây có lần được nghe qua đài các bài viết về anh
bộ đội và nhất là bài “Anh bộ đội tuổi hai mươi”, tôi rất thích lối nhận xét và
lối phác họa của tác giả. Đã từ lâu tôi muốn trao đổi với anh về những cán bộ và
chiến sĩ trong quân giải phóng miền Nam, nhưng loay hoay mãi chả biết bắt đầu thế nào.
Anh Trần
Độ chọn chủ đề “Anh bộ đội” và giải thích quá trình lịch sử và ý nghĩa của chữ
“Anh bộ đội”, tôi thấy rất hay. Tôi chọn những chữ “Mấy em giải phóng” để nói
chuyện với anh. Vì tôi cảm thấy mấy chữ đó cũng có ý nghĩa nhiều mặt. Ở trong này,
hồi chín năm thì tiếng “Anh bộ đội” hoặc anh Vệ Quốc đoàn cũng là tiếng phổ biến
trong mọi lứa tuổi để gọi bộ đội của mình. Tiếng đó nói chung là thân thiết, nó
biểu hiện một mối quan hệ thân mật, khái quát, nhưng đến bây giờ, họ hàng của bộ
đội mở rộng quá rồi. Các lớp “Anh” ngày xưa nay trở thành “chú, bác” cả. Những
người kêu bộ đội là anh ngày xưa thì bây giờ có rất nhiều em, con và cháu vào bộ
đội rồi. Như vậy là tiếng anh bộ đội nó có một lịch sử của nó và bây giờ người
ta tuỳ lứa tuổi mà kêu anh Giải phóng, chú Giải phóng, em Giải phóng, con Giải
phóng, mấy đứa Giải phóng, v.v… Có đôi lần tôi thấy mấy bác nông dân lớn tuổi
trong lúc hết sức xúc động kêu lên “Mấy em Giải phóng, xông lên đi!”. Đó chỉ là
đột xuất nhưng những chữ đó lại cứ vang vọng mãi trong tâm hồn tôi một âm điệu
kỳ lạ. Đó là những tiếng nói thốt ra trong lúc mối căm thù bị kích động cao độ
đối với kẻ thù và tình thương yêu dạt dào
nhất đối với người thân, hai tình cảm hòa vào nhau thành một tình cảm cách mạng
âu yếm động viên nhau chiến đấu. Anh có thấy thế không? Tôi cứ rung động mãi
về những tiếng ấy, nhớ lại hồi đầu kháng chiến, Hồ Chủ tịch nói với các chiến
sĩ thủ đô một câu: “Các em quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” và gần đây Hồ Chủ
tịch còn nói Quân đội Nhân dân có người em oanh liệt là Quân Giải phóng thì tôi
lại càng thấy câu “Mấy em Giải phóng” thật là đầy ý nghĩa đậm đà. Ngay tôi nói
chuyện với anh đây há chẳng phải là một người em nói chuyện với một người anh
ruột thịt đó sao?
Mỗi lần nghĩ đến các chiến sĩ cán bộ của Giải phóng
quân, tôi không làm sao có được một hình ảnh khái quát tổng hợp (dù chỉ về hình
thức) mà cứ hàng ngàn hình ảnh khác nhau phong phú, sinh động chen lẫn và nhảy
múa trong tôi. Đó không phải chỉ là vì chúng tôi chưa có đồng phục đẹp đẽ như các anh. Nhưng vì trong này bất cứ ai thoát ly gia
đình đi làm cách mạng cũng tức là đi Giải phóng, đi đầu quân, đi tân binh cả,
gần thì lên Huyện, Tỉnh, xa thì đi Khu, Miền và chúng tôi có nhiều binh chủng
đặc biệt như giao liên, vận tải, bảo vệ, v.v... đều có vũ trang, có chiến đấu
nhưng chẳng thuộc một hệ thống đơn vị bộ đội nào. Tất cả nhân viên, y tá, đánh
máy, cấp dưỡng cả nam lẫn nữ ở cơ quan cũng đều có lý do để tự thấy mình
là Giải phóng vì cũng lưu động, võ trang, có thắt lưng và bi-đông, có mũ và dép
cao su và quân sự hóa cả.
Trong các đơn vị Quân Giải phóng, mỗi người đều có một
lịch sử đấu tranh đại khái là bé thì làm việc liên lạc đưa thư giúp việc mấy
chú, lớn một chút thì làm du kích, tự vệ công khai hoặc bí mật (cũng gọi là hợp
pháp) rồi theo lời kêu gọi từng đợt “đi Tân binh”, “xây dựng lực lượng” có
những người thì vẫn giữ những tên cũ như : Chun, Nú, Củi, Kèn, Đậu, Búa, v.v...
nhiều người thì đổi tên : Quyết Chiến, Quyết Thắng,... Ở đâu anh cũng sẽ gặp
rất nhiều người tên là “Chiến” và tên là “Thắng”,... Có chú còn nhỏ tuổi tên
là Chiến nhưng hỏi ở nhà tên gì, chú bẽn lẽn trả lời: tên là Đực. Đáng chú ý
là các chú bé này. Các chú hoặc trốn theo bộ đội hoặc nói dối tăng lên vài tuổi
để được đi bộ đội, mỗi khi gặp người lạ, các chú đều nghiêm nghị khô khan trả
lời các câu hỏi chuyện một cách rất lạnh lùng. Các chú phải tỏ ra là người lớn
mà. Nhưng khi hỏi kỹ thì ngay trong đơn vị, các chú còn nhiều khi giận lẫy với
cán bộ không ăn cơm, thỉnh thoảng nhớ ba má còn khóc vụng. Nhưng chú nào cũng
say chiến đấu, coi chiến đấu như một trò chơi hấp dẫn kỳ lạ, cũng tự hào là
mình đi làm cách mạng như các chú, các bác hồi chín năm. Còn các bạn thanh niên
đã lớn tuổi thì sống thoải mái hơn. Các anh em đó sống không tính toán, mối thù
gia đình quê hương đã trở thành một khía cạnh thường xuyên trong tâm hồn; ai
cũng nói về mối thù của mình như một chân lý của cuộc đời, ai cũng chấp nhận
cuộc đời chiến đấu gian khổ như một chuyện dĩ nhiên. Hầu như trong tâm hồn nồng
nhiệt giản đơn và trong sáng của họ, dân tộc Việt Nam phải làm cách mạng là điều dĩ nhiên và cách mạng nhất
định sẽ thắng cũng là điều dĩ nhiên. Hồi chín năm, cha anh đã làm thế và đã
thắng được một nửa thì bây giờ ai làm rồi cũng sẽ thắng, làm cách mạng đã trở
thành một lẽ sống. Họ nói chuyện với nhau những chuyện hoạt động xưa của mình
như canh gác cho cán bộ, đi phá đường, giật mìn, trừ gian, đánh bốt, đấu tranh
chính trị cũng hồn nhiên, bình thản như khi nói những chuyện làm lao động, làm
ăn ở nhà như đánh cá, làm ruộng, lượm trái cây, cất nhà vậy. Họ coi cuộc đời
chiến đấu ác liệt hiện tại như một học sinh học lên lớp mười, hứng thú hơn, phong
phú hơn. Trong trận Đồng Xoài, có đồng chí chiến đấu liền hai đêm một ngày, bị
thương hai lần, khi nằm trên cáng về bệnh viện vẫn tươi cười nói với mọi người: “Đánh thế... mới đã”. Các em “nữ Giải phóng” cũng gây cho tôi những ấn tượng
xúc động. Các cô là y tá, đánh máy, vận tải, thông tin, cấp dưỡng. Ngày Tết các
cô thường rấm rứt khóc nhớ nhà, nhớ bạn, chia tay nhau các cô cũng khóc, thương
anh em các cô cũng khóc. Nhưng ngay trong tiếng nổ tàn bạo của bom, đạn, tiếng
cười các cô cũng giòn tan và vượt lên những nốt thật cao, thật trong sáng. Các
cô đối với sự nghiệp cách mạng cũng trung hậu thiết tha như tình yêu và tình
mẹ. Một cô cấp dưỡng gặp pháo bắn dồn dập vẫn bò đi thu dọn nồi, soong, chén,
đũa, ... Xong rồi cô lại cười khanh khách và thật thà nói với các bạn: “Tao sợ
quá, cuống tay lên, nhưng chết thì chết tao không để mất đồ của đơn vị, mất đồ
đơn vị đói thì sao?”. Những thanh niên nam nữ đó ít được học nên ít biết
Ốt-stơ-rốp-ki, Tôn-xtôi, Bét-tô-ven, v.v… như các anh, các chị ở miền Bắc, tuy
cũng như thanh niên miền Bắc, chất liệu làm nên con người họ vốn đã là chất
liệu cách mạng. Họ gần gũi thiên nhiên hơn, có rất nhiều tình cảm hồn nhiên và
nồng nhiệt. Họ làm cách mạng cũng như măng phải mọc thành tre, mặt trời phải có
tia nắng ấm. Giản đơn mà sâu sắc, sâu sắc đến mức tự nhiên, ít tính toán. Tôi
có gặp một anh chàng mặc áo luôn phanh ngực, quần chẳng có thắt lưng, dép thì
một chiếc Thái Lan, một chiếc bằng lốp xe, ăn cơm phải đi mượn ca, hành quân
uống nước nhờ, gia tài chỉ có cái võng, miếng ni-lon và cái mùng với một khẩu
súng. Tôi rất lo lắng về phong thái của anh ta. Nhưng các bạn anh ta kể chuyện
một lần anh đi lĩnh đạn súng cối gặp máy bay oanh tạc, anh nắm tay đồng đội kéo
nhau nằm úp lên đống đạn súng cối. Sau khi hết oanh tạc, anh phủi quần áo phanh
ngực và cười hì hì mà nói: “Như thế rủi có sao vẫn giữ được đạn cho cách mạng”.
Đó là một sự việc cụ thể có tính chất cá biệt. Nhưng cái tâm hồn cách mạng ấy
là nét chung của các anh chị em trong Giải phóng quân đấy anh T.V. ạ. Tuy vậy,
luộm thuộm quá cũng không là tốt phải không anh?
Ảnh: Cùng các chiến sĩ Quân Giải phóng trên đường hành quân |
Anh T.V. ơi!
Thế là loay hoay mãi tôi vẫn chưa
vào đề nói chuyện được với anh. Bây giờ mới bắt đầu đây. Tôi bắt đầu kể với anh
những con người tiêu biểu cho chúng tôi nhé, tôi kể anh vài nét mà tôi đã được
thấy khi được sống giữa những người anh hùng trong Đại hội anh hùng của Quân
Giải phóng 1965 nhé.
* * *
Trong những ngày nắng đẹp cuối tháng tư năm 1965, tôi
được đến khu Hội trường để ở đó được gặp một cảnh khái quát thu nhỏ của miền Nam căm thù và chiến đấu. Đó là những con người với cả
cuộc đời thật sự của mình cũng như những sự tích anh hùng trong lịch sử đấu
tranh của mình từ Quảng Nam, Bình Định, Thừa Thiên, Tây Nguyên, Bình Thuận đến
Gia Định – Sài Gòn, Bến Tre, Tân An, Mỹ Tho, Trà Vinh, Cà Mau.
Đó là những anh hùng của một thời kỳ của cuộc đấu
tranh cách mạng ở miền Nam, thời kỳ chống khủng bố, võ trang tự vệ đồng khởi,
đánh du kích và bước đầu xây dựng lực lượng vũ trang. Mỗi người trước khi trở
thành anh hùng đều bắt đầu bước đường cách mạng của mình một cách hết sức khác
nhau, nhưng đều hết sức giống nhau ở một điểm yêu nước, thương dân, tự hào dân
tộc. Nhưng lòng yêu nước ấy lại bắt nguồn từ những nỗi bất bình đối với tàn
bạo, mối căm thù đối với cảnh nhà tan nước mất và tinh thần phản kháng của
những người cùng khổ, những nỗi bất bình ấy, mối căm thù ấy, tinh thần phản
kháng ấy được ánh sáng cách mạng chiếu vào sáng bật lên như kim cương và lóe ra
những tia sáng của các hành động anh hùng. Ánh sáng của đường lối cách mạng đã
biến những nỗi niềm u uất của từng số phận con người cùng khổ nô lệ thành những
sức mạnh vĩ đại. Trước đây trong xã hội ta đã chẳng có hàng ngàn hàng vạn dòng
nước mắt, ngàn vạn giọt máu âm thầm ngấm trong đất ẩm, lôi cuốn hàng vạn số
phận âm thầm trôi qua đó sao ? Nhưng có ánh sáng Cách mạng một sức mạnh vĩ đại
vụt lớn lên thần kỳ như gậy sắt Phù Đổng vậy. Chắc anh đã gặp Mười Lý, Huỳnh
Đảnh, Trần Dưỡng và Vai rồi chứ gì ? Đấy Mười Lý, cô thiếu nữ mảnh dẻ, dịu hiền
và hiếu thảo có mái tóc “cổ điển” chải sát miết vào đầu, với đường ngôi rất
thẳng, đôi mắt rất trong, tiếng nói rất uyển chuyển. Nhưng chính lòng trung hậu
của chị không thể bị tàn bạo, đảo điên làm mờ tối, đã đưa chị thẳng bước trên
con đường chính nghĩa. Tấm lòng yêu thương tha thiết và trong sáng của chị vì
những nghịch cảnh của một chế độ bán nước và tình cảm nồng hậu của chị đã làm
cho chị yêu thương cách mạng và căm thù phản động. Đối với cách mạng, chị hồn
nhiên, trong trắng đến ngây thơ, nhường trên nhịn dưới, thảo ngay thẳng thắn.
Nhưng đối với quân phản động cướp nước, chị dũng mãnh mưu cơ như một chiến sĩ
lão thành.
Nhưng anh T.V. ạ, trong hai nữ anh hùng thì phải nói
chị Út Tịch đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc, nhiều suy nghĩ và nhiều
bài học. Chị đến Đại hội hơi chậm, mãi buổi bế mạc chị mới đến. Chúng tôi mong
chị quá trời. Chị đến, cả Đại hội hừng lên một niềm hứng phấn dạt dào. Chúng tôi
đón chị như đón một vị tướng ở mặt trận mới về và cũng như đón một người chị
thân yêu. Việc trước tiên là chúng tôi phải kiếm trầu cau cho chị, vì không có
trầu cau chị không nói chuyện được. Hình như đời chị bẩm sinh ra để mà phản
kháng, mà chiến đấu. Hồi còn nhỏ, năm lần đi ở với địa chủ thì ba lần chị phản
kháng hoặc đánh lại, hoặc chửi lại rồi bỏ đi. Số phận của chị tưởng chừng như
bị dìm sâu trong chuồng heo, chuồng trâu và bãi bùn đen trên bờ ruộng. Nhưng
chị không chịu, chị vùng lên và khi gặp cách mạng thì sức vùng lên của chị có
chỗ dựa lại càng mãnh liệt hơn bao giờ hết. Trước đây chị phản kháng bằng cách
giằng lại củi của địa chủ mà đánh lại nó, ngày nay chị có vũ khí trong tay, chị
say mê vũ khí, nắm chắc vũ khí, chị gắn chặt mình vào tổ chức cách mạng, vì đối
với số phận của chị chỉ có cực khổ, gian lao nguy hiểm thì cũng là sống tự do,
ngẩng đầu lên mà sống. Chị có người bạn đời lý tưởng là anh Tịch, hai vợ chồng
bàn việc làm ăn, nuôi con thì ít mà ngày đêm bàn việc sử dụng vũ khí và chiến
đấu cho cách mạng.
Người chị hết sức nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, rắn chắc, mái
tóc chị búi qua loa cẩu thả, đôi mắt chị to tròn, sắc sảo và thẳng thắn, đôi
mắt ấy nhìn vào ai cũng như nói với người đó: “Tôi Út Tịch là thế này đây, tôi
chỉ biết làm cách mạng, anh hay chị có làm cách mạng không?” Đôi môi chị mỏng
căn chỉ quết trầu màu đỏ sẫm rất ăn với nước da bánh ít hơi khô trên khuôn mặt
chị. Chị ăn trầu luôn miệng và chị đi đánh giặc phải có hai thứ : súng và trầu.
Chị không biết lạ và không biết e ngại, gặp chúng tôi chị ngồi bó gối trên ghế,
lấy khăn rằn quấn vội lên đầu, cầm trầu ăn rồi bắt đầu nói chuyện, tiếng chị
nói giòn tan. Chị nói lộn xộn không có thứ tự thời gian và thích nhắc đi nhắc
lại những chuyện mà chị thích. Chị kể chuyện chị đi đường gặp bọn lính ở một
bót nọ soát giấy và nghi ngờ giam giữ chị. Chị nhìn quanh bót và nghĩ thầm :
“Phải bót này ở Cầu Kè thì mình có cách lấy dễ như chơi”. Thấy một tên ngụy
binh vẻ buồn thiu, chị nghĩ : Tên này ta có thể “binh vận”, giải thích cho nó
được đây. Ở nhà, chị làm binh vận cũng vất vả lắm, chị nhiều ý nghĩ nhưng không
biết nói ra làm sao, chị nghe ra-đi-ô, nhớ lấy, đi nói hết rồi lại phải về nghe
ra-đi-ô mình mới nói tiếp được. Chị không biết chữ, chị chỉ biết vẽ ký hiệu,
chị làm cách mạng rất tự nhiên và giải quyết mối quan hệ giữa gia đình và cách
mạng cũng rất tự nhiên. Chị cứ đi chiến đấu, đi tuyên truyền, bà con cô bác lối
xóm thương chị lại trông nom cho con chị. Chị yên tâm lại cứ đi làm tới mãi. Bà
con cô bác lại càng thương. Chị nhiều chất xã hội chủ nghĩa trong người lắm.
Chị có nhiều đặc tính của người vô sản. Trung ương Hội Phụ nữ Giải phóng tặng
chị mười lăm thước vải, chị để ở nhà, đi vắng, nên bị lấy trộm, về, chị cười
nói: “Người ta nghèo hơn mình, người ta mới lấy”. Bà con thương, lại bù cho chị
ít vải khác, chị lại đưa nộp xã để gởi cho đồng bào miền Trung đang bị lụt lội khổ
sở hơn. Nhưng chị có một cái “tư hữu” đó là đạn và lựu đạn. Đánh được giặc thế
nào chị cũng cất đi một ít để làm vốn riêng. Chị khoe với tôi “Tôi có một khạp
lựu đạn cất riêng”. Tôi đùa chị: “Thế là chị lộ bí mật rồi”. Chị tỉnh khô, trả
lời: “Anh có biết thì anh về nhà tôi, tôi đố anh tìm thấy được”. Chị xem phim
“Nữ Hồng quân” của Trung Quốc, chị khóc và thấy cảnh trong phim giống chị quá
và chị thương chồng vì hai vợ chồng cùng cảnh. Chị xem văn công thì lại phấn
khởi nói to lên tất cả ý nghĩ và cảm hứng của mình.
Anh T.V. ơi! Tôi biết nói thế nào nữa về chị Út đây,
tôi không có cách nào nói ra những cảm xúc của tôi cả, tôi cứ suy nghĩ miên man
về sức mạnh cách mạng trong quần chúng, về sự kỳ diệu của tư tưởng cách mạng,
của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Tất nhiên các đồng chí lãnh đạo đã nhắc nhở chị Út
học tập nhiều hơn, nhưng sao tôi thấy hầu như chị đã là một hình tượng nghệ
thuật rất hoàn chỉnh và lý tưởng mà thực 100 phần trăm về một lớp người cách
mạng. Tôi so sánh thầm: Đây là Cha-pa-ép Việt Nam và đây cũng là một “Giải
phóng” thân yêu của bà con cô bác ở Trà Vinh đấy.
Nếu chị Út luôn luôn biểu hiện rõ vẻ đảm đương, bộc
trực, nhanh nhẹn bao nhiêu thì Bi-năng-tắc, người cán bộ già năm mươi lăm tuổi
mà nhiều anh em chúng tôi kêu là Bác Hai, lại lặng lẽ, chậm rãi bấy nhiêu. Tóc
Bác đã hoa râm, người Bác cằn cỗi, rắn chắc toát lên vẻ một cây cổ thụ uy
nghiêm vững chắc đã mấy chục năm gội gió dầm sương. Bác có khuôn mặt vuông,
khắc khổ và hai gò má cao, nước da bánh ít làm cho bộ mặt thường u uất, đôi
lông mày xám nhạt rậm rạp phủ che bớt ánh sáng của đôi mắt đầy đăm chiêu tư lự
làm cho tôi luôn luôn thấy Bác đang suy nghĩ để giải thích một vấn đề gì cho
dân hiểu. Tuy thế, Bác cười luôn, khi Bác cười, đôi hàm răng đó nở ra một ánh
sáng kỳ lạ hòa với ánh sáng của đôi mắt xám làm cho bộ mặt bừng lên một niềm
vui giống hệt niềm vui hồn hậu của một ánh lửa đêm nhảy nhót trong một cánh
rừng già. Bác nói tiếng Kinh không đúng vần và dấu, nhưng Bác diễn tả ý nghĩ
của mình rất sáng sủa. Nhìn vẻ người của Bác, đôi cánh tay chai rám và gân guốc
như dây luộc, chúng tôi thấy rất rõ được cuộc đời “đói cơm lạt muối” của Bác và
của gia đình Bác. Bác phấn khởi khoe với chúng tôi con Bác đã đi Giải phóng và
trong ánh mắt lại thấy có ánh lửa rừng nhảy nhót, …
Cuộc đời của Bác là một cuộc đời đầy tình thương :
thương cán bộ, thương Đảng, thương cách mạng, thương vợ, thương con, thương
đồng bào. Tất cả những tình thương ấy hòa hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau làm
tăng thêm lòng căm ghét kẻ địch. Làm cho Bác giải quyết các vấn đề phức tạp từ
chỗ gia đình êm ấm, đoàn kết các dân tộc, đến chỗ tổ chức đánh giặc đều hợp lý
và có những nét độc đáo.
Phạm Văn Hai thì trái ngược cả với hai người. Anh
người nhỏ nhắn, trắng trẻo, trán cao, khuôn mặt vuông vắn, hiền lành, đi đứng
điềm đạm, ăn nói nhỏ nhẹ, mái tóc thì đen nhánh mà miệng lại luôn luôn mỉm
cười. Đến dự Đại hội anh hùng, anh gặp cả em ruột là chiến sĩ thi đua. Nhìn vóc
vạc của chị Út mà nghe chị kể cuộc đời năm lần đi ở đợ cũng dễ tưởng tượng;
nhìn mặt và tay Bác Bi-năng-tắc mà nghe Bác kể có lúc sáu tháng ăn lá gió để
sống cũng thấy rõ được ngay. Nhưng nhìn con người Phạm Văn Hai, nếu anh còn nhỏ
tuổi một chút thì ai cũng thấy anh là một học sinh trường kỹ thuật nào đó, mà
nghe kể cuộc đời sôi nổi : hai lần bị bắt, hai lần vượt, hai lần kẻ thù kêu án
tử hình vắng mặt, cuộc kháng chiến trước cùng anh hùng Bùi Văn Ba lập công đầu
trong trận đánh kho bom Phú Thọ Hòa, cuộc kháng chiến này vào sinh ra tử, sống
như “Nam tước Phôn-gon-rinh” chỉ huy các trận đánh tàu Card, rạp Kinh Đô, là
người chỉ huy và trao nhiệm vụ cho Nguyễn Văn Trỗi, v.v… thì thật không ai
tưởng tượng nổi. Một con người đã cùng đồng đội xuất quỷ nhập thần làm rung
chuyển thành phố Sài Gòn mà khi đi hỏi vợ thì run như bị sốt rét, cấu nát cả
chiếu nhà mẹ vợ. Đấy, con người anh hùng của chúng ta là thế đấy. Ở xa nghe nói
thì tưởng bịa, nhưng ở đây tôi ngồi đây và Phạm Văn Hai trước mặt tôi đây, tôi
nói chuyện với anh mà tôi nói nhiều hơn anh nói. Nghe những chiến công lẫy lừng
của anh, người tôi như muốn nhảy lên, nhưng anh vẫn điềm nhiên như nói câu
chuyện làm ăn quen thuộc hàng ngày. Chỉ thấy anh nói nhiệm vụ Đảng giao và các
đồng đội anh làm mà anh không nói gì về việc cụ thể của anh. Chỉ thấy anh bộc
lộ bất bình căm thù, đau xót khi anh kể những cảnh khổ của đồng bào, thậm chí
có chuyện lúc anh đi hoạt động gây cơ sở, có chỗ đồng bào thấy bóng anh đi đêm
tưởng ăn trộm bắt đánh anh, anh cũng kể lại với một giọng xót thương thông cảm.
Anh kể chuyện anh gặp Nguyễn Văn Trỗi rồi tự nhiên anh sôi nổi hơn bình thường
một chút, nói nhanh lên cảm tưởng của anh: “Anh Nguyễn Văn Trỗi hiền lành lắm,
sau này khi thấy Trỗi anh hùng như vậy, tôi mới nghiệm thấy là phàm người nào
có lương tâm trong sạch, tính tình nhuần nhị, thì thế nào cũng là những người
tốt, mới gặp, tôi chỉ mến Trỗi ở chỗ hiền lành!”. Anh làm những chuyện thật ly
kỳ, nhưng anh không hề thấy ly kỳ, lúc nào anh cũng tin vào đường lối cách
mạng, tin vào nhân dân. Anh cứ đi thẳng với nhân dân lao động, thuyết phục và
lần nào anh cũng thành công. Có lần anh cùng hơn mười đồng đội đột kích vào một
bót ở giữa một khu địch kiểm soát, sau trận đánh, toàn đội bị thương, thế mà
anh cứ dựa vào nhân dân, anh đưa toàn đội vượt nhiều vòng vây địch về căn cứ an
toàn.
Nếu chị Út là một cố nông hừng hực lửa căm thù, luôn
hăm hở chiến đấu thì anh Hai là một công nhân giác ngộ sâu sắc quyền lợi của
giai cấp và đường lối đấu tranh, luôn bình tĩnh gan dạ lãnh đạo mọi người hoàn
thành các nhiệm vụ cách mạng.
Chắc anh gặp Trần Dưỡng, Huỳnh Đảnh và Vai rồi nhỉ.
Tôi cũng không biết nói gì thêm, tôi chỉ muốn nói những cảm xúc của tôi khi
nghe cuộc đời của Dưỡng. Đế quốc và bọn Việt gian bán nước đã giết cả mẹ và cha
Dưỡng một cách thảm thương và cũng chính vì thế đẩy Dưỡng vào con đường báo thù
nhà, đền nợ nước. Chúng muốn đẩy những thanh niên như Dưỡng vào con đường nô
lệ, đày đọa, nhưng Dưỡng đã hun đúc chí căm thù và cách mạng đã đưa Dưỡng vào
con đường cứu nước, cứu nhà. Chính Dưỡng đã nói có lý khi bọn giặc kêu: “Việt
cộng nhỏ con”, Dưỡng bảo: “Nhỏ con nhưng bằng sắt, bằng đồng, chúng bây đụng
vào đây xem có tóe lửa không?”. Đúng đấy, đó là thứ sắt, đồng của căm thù, nó
còn nặng hơn cả hạt nhân nguyên tử, nó rắn chắc hơn kim cương. Nghe Dưỡng nói
xong, tôi trông lúc nào Dưỡng cũng như nặng đến ngàn cân, hình như tôi cảm thấy
được sức nặng của căm thù…
Vai, Đảnh đều là những thanh niên nghèo khổ, không cam
chịu cuộc sống thấp hèn, đều kêu gọi đồng đội khi ngắm bắn phải có căm thù mới
bắn trúng. Những lời đó cũng phảng phất như lời kêu gọi bất diệt của Nguyễn
Viết Xuân “Nhằm thẳng vào đầu thù mà bắn” đã trở thành Đảng tính, trong kỹ
thuật chiến đấu của quân đội cách mạng.
Tôi còn được gặp nhiều, nào là Nguyễn Minh Thu của
tiểu đoàn Gi-rông, vừa kể chuyện vừa làm thơ.
Câu chuyện lá cờ Gi-rông của anh đã làm cho nhiều nhà quay phim say sưa tưởng
tượng. Nào là Lê Quang Công, người đại đội trưởng xung kích nhiều chiến công.
Nào là Nguyễn Hội, Nguyễn Kim, những con người của gian khổ kiên trì rất mực.
Nguyễn Văn Quý, một người cố nông ở tỉnh Gia Định hay nói cà lăm mà nhiều chiến
tích kỳ lạ. Nguyễn Trung Thành, là Ngô Gia Khảm của miền Nam. Tôi còn được nghe những gương
hy sinh của Nguyễn Văn Đừng gang thép, của Võ Hưng dũng sĩ Điện Bàn. Chúng tôi
đã lặng người rưng rưng nước mắt khi nghe bản báo công tả cái chết rất cộng sản
của anh Võ Hưng. Tôi còn được nghe cái chết của em Nguyễn Minh, giao liên ở Mỹ
Tho khi bị thương tỉnh dậy thấy địch băng bó cho mình đã giựt băng ra, không
thèm nhận và chửi vào mặt chúng. Tôi thấy cả một khí phách anh hùng của cả Trần
Bình Trọng lẫn Trần Quốc Toản, v.v…
Anh T.V., một đức tính rất đáng yêu của các anh hùng
ta là khiêm tốn, họ say sưa học tập lẫn nhau, nghe thành tích của ai họ cũng
thấy là hơn của họ, họ lắc đầu le lưỡi. Còn việc của bản thân thì họ thấy rất
tầm thường. Anh hùng Bi-năng-tắc rất phục khi nghe cô Tô Thị Huỳnh, chiến sĩ
thi đua, mới mười chín tuổi hơn trăm lần đánh trận, bị chông đâm vào chân còn
cùng đồng đội mang cả chông lội qua sông về căn cứ thì khen lấy khen để, nhưng
Tô Thị Huỳnh thì lại lắc đầu le lưỡi trước cảnh sáu tháng ăn lá giò của Bác
Hai. Cô nói: “Chúng em đánh giặc về có cháo gà ăn thì ai chả đánh được”.
Thôi, nói sao cho hết một lúc được hàng mấy chục cuốn
tiểu thuyết dài rất sinh động và rất ly kỳ đó. Tôi chỉ kể thêm anh nghe là
trong Đại hội này, tôi còn được gặp những người chưa được tuyên dương anh hùng,
nhưng cũng đã rất anh hùng. Chính những người như Nguyễn Minh, Tô Thị Huỳnh là
những người như thế đấy. Tôi còn gặp Nguyễn Văn Quận, một thanh niên cố nông đi
ở đợ coi trâu, đó là một thanh niên thấp, mập, có đôi mắt nhỏ và miệng cười rất
ngây thơ. Ngay từ nhỏ anh đã rất bất bình với những cảnh tàn sát khủng bố và
bản thân bị cực khổ muốn tìm con đường thoát. Anh được biết đến Mặt trận và
Quân Giải phóng, chính là qua những câu chuyện tán tụng của bọn lính ngụy, anh
để ý dò tìm và anh tìm ra dấu vết của cán bộ Mặt trận, rồi anh liên lạc với cán
bộ và được hướng dẫn hoạt động. Kẻ địch thường lải nhải “Việt cộng ép buộc dân
chúng” nhưng sự thật là chính chúng là những kẻ ép dân chúng phải đi theo cách
mạng. Khi Quận tham gia Quân Giải phóng ở địa phương, trong một trận đánh trái
diệt xe, trái không nổ, anh vượt qua lửa đạn và đêm tối lấy trái về cho cách
mạng, vì anh nghĩ cách mạng của những người nghèo, phải chắt chiu từng chút.
Anh T.V., anh có nghe tiếng Huỳnh Văn Bồi, một cán bộ
vận tải giao liên tự mình trong một thời gian dài vừa công tác vừa tập luyện,
cải tiến công cụ và động tác tiến tới một mình thường xuyên vác hơn một tạ hàng
vận chuyển trên đường không? Anh có biết chiến sĩ đặc công Nguyễn Văn Hòa điều
tra sân bay Sóc Trăng hơn một trăm đêm đi về gây cơ sở để tạo điều kiện mò vào
trại sân bay không? Trong Đại hội, chúng tôi truyền tụng chuyện Mai Thanh Thế
chặt tay để tiếp tục chiến đấu. Nguyễn Văn Khái dùng các-bin và lòng căm thù hạ
trực thăng đã đành, chúng tôi còn sôi nổi trao đổi với nhau chuyện một chiến sĩ
vứt lòng con mắt bị thương để tiếp tục chiến đấu, một chiến sĩ khác nát hai tay
còn nhảy lên xe tăng đánh tan xe tăng địch, chuyện đồng chí du kích bị thương
nặng, nhưng anh bắn rớt được máy bay địch, anh cứ thế đứng dang hai tay lên
trời và hét lớn “Đã chưa? đã chưa?” cho đến khi tắt thở.
Ngành nào cũng có những chuyện anh hùng, chỗ nào cũng
có những chuyện anh hùng. Những sự việc anh hùng như thế đều mang theo một tính
chất giản dị hồn nhiên đầy lòng tự hào dân tộc. Có một nhà báo ngoại quốc bảo
chúng tôi: “Tiêu chuẩn anh hùng của các đồng chí quá cao”. Chúng tôi không
biết trả lời thế nào. Từ mấy năm nay chủ nghĩa anh hùng cách mạng lại đang được
thấm sâu trong các lực lượng vũ trang và chắc chắn sẽ có dịp lại nói chuyện với
anh những phẩm chất anh hùng và những hành động anh hùng kỳ diệu khác đang xuất
hiện khắp nơi với mức độ ngày càng cao.
Thôi câu chuyện đã dài, xin ngừng bút ở đây và chắc
anh cũng đồng ý như tôi. Quân Giải phóng đang trưởng thành đã và sẽ mãi mãi
xứng đáng với truyền thống oanh liệt của cách mạng miền Nam, xứng là “Mấy em”
dũng cảm, đáng yêu của tất cả bà con cô bác nhân dân lao động miền Nam.
Thân ái xiết tay anh
6-1966(Trích Trần Độ tác phẩm, Tập I, Nxb Hội Nhà văn, 2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét