Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai,
một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ra đời, hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới hình thành, phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước Á, Phi và Mỹ
la-tinh ngày càng phát triển cả theo chiều rộng và chiều sâu. Phong trào đấu
tranh của nhân dân đòi cải thiện dân sinh, dân chủ ở các nước tư bản Tây Âu và
trên thế giới tiếp tục tiến triển mạnh mẽ và rộng khắp.
Trong bối cảnh tình hình thế giới thuận
lợi đó, qua chín năm kháng chiến lâu dài và gian khổ, nhân dân Việt Nam đã đánh
bại thực dân Pháp, giải phóng toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Dư luận nước ngoài cho rằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã
giáng một đòn quyết định làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ, làm rạng rỡ tên tuổi
của dân tộc Việt Nam trên khắp thế giới, củng cố thêm niềm tin của toàn thể các
dân tộc bị áp bức hướng về chủ nghĩa xã hội, hướng về Liên Xô, thành trì của cách
mạng thế giới.
Trước sự phá sản của chủ nghĩa thực dân
cũ và sự phát triển ngày càng vững chắc của lực lượng cách mạng dân tộc, dân chủ
khắp mọi nơi, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, buộc phải thay đổi âm
mưu, thủ đoạn, chính sách để thích ứng với tình hình của giai đoạn mới, nhằm cứu
vãn chủ nghĩa thực dân đang sụp đổ, hòng ngăn chặn bước tiến của ba dòng thác cách
mạng. Chủ nghĩa thực dân mới là thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc trong thời đại mới,
thời đại mà nội dung cơ bản là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
thời đại suy vong của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, thời đại tiến
công và thắng lợi của ba dòng thác cách mạng trên thế giới. Do đó, tuy chủ nghĩa
thực dân mới, đặc biệt là chủ nghĩa thực dân mới Mỹ, có nhiều âm mưu, thủ đoạn
xảo trá, lừa bịp, nguỵ trang dưới nhiều khẩu hiệu, nhiều tên gọi, nhiều hình thức
mị dân tinh vi, hiểm độc, song dù sao chính sách thực dân giấu mặt trá hình đó
vẫn là sản phẩm của thế suy yếu của bọn đế quốc trước những đòn tiến công dồn dập
của các lực lượng cách mạng trên thế giới.
* * *
Ở Việt Nam, ngay sau khi nhân dân ta
vừa chiến đấu chống đế quốc Pháp thắng lợi, đế quốc Mỹ đã âm mưu biến miền Nam
Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng bằng cách dựng lên chính quyền tay
sai Ngô đình Diệm. Những năm đầu của chế độ này, trong thời gian ngắn từ 1954 đến
1959, bọn cầm đầu Mỹ, nguỵ mong muốn biến miền Nam nước ta thành “một nước riêng
biệt”, tích cực tuyên truyền con đường “tự do, dân chủ” mà chúng chọn lựa “bên
cạnh người Mỹ”. Từ những năm 1960 trở đi, chế độ thực dân mới mà Mỹ thiết lập tại
miền Nam đã đi vào thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng đánh dấu bằng phong trào đồng
khởi của nhân dân miền Nam, bằng sự thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng và tiếp
đó là bằng sự sụp đổ thảm hại của chính quyền tay sai Diệm – Nhu. Để cứu vãn chế
độ tay sai trước nguy cơ sụp đổ, đế quốc Mỹ buộc phải áp dụng chiến lược “chiến
tranh cục bộ”, ào ạt đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam. Từ con số gần 20.000
cố vấn, sĩ quan, chuyên viên Mỹ thời Diệm – Nhu, đế quốc Mỹ đã đưa hơn nửa triệu
sĩ quan và binh lính trực tiếp xâm lược miền Nam. Bộ mặt cướp nước và bán nước của Mỹ,
nguỵ quá lộ liễu. Nước sơn “tự do, dân chủ” của “chính quyền quốc gia” bị bóc
trần. Với cuộc chiến tranh cứu nước của nhân dân ta từ Bắc chí Nam, phong trào đấu tranh của đồng bào
miền Nam từ nông thôn đến thành thị đã phát
triển mạnh mẽ và rộng khắp. Cuộc kháng chiến anh hùng của toàn thể nhân dân ta đã
nhanh chóng làm cho âm mưu xâm lược của địch bị thất bại nặng nề, đế quốc Mỹ lại
buộc phải thay đổi chiến lược. Đó là chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” - chiến lược báo trước
sự phá sản không tránh khỏi của chế độ thực dân mới vào một ngày không xa nữa.
Thực ra, chế độ thực dân mới Mỹ tại
miền Nam Việt Nam có những chỗ khác với chế độ thực dân mới ở nhiều nước mà đế quốc
Mỹ đã xây dựng tại châu Á, châu Phi và châu Mỹ la-tinh. Nó không bao giờ đạt đến
trình độ hoàn chỉnh và ổn định, mặc dù đế quốc Mỹ đã ráo riết thực hiện cả một
hệ thống chính sách chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, xã hội thực dân mới.
Nói khái quát, từ năm 1954 đến trước
ngày 30-4-1975, đế quốc Mỹ đã cố thực hiện từng bước của chủ nghĩa thực dân mới
tại miền Nam nước ta.
Về chính trị, chúng dựng lên bộ máy
nguỵ quyền bù nhìn độc lập giả hiệu với cả
một hệ thống Hiến pháp, Quốc hội, Toà án, mật vụ, cảnh sát, trại giam … xuống
đến tận thôn ấp để kìm kẹp đồng bào ta. Về quân sự, chúng thành lập một quân
đội đánh thuê bản xứ với cố vấn, chỉ huy, trang bị Mỹ. Những âm mưu này không
thực hiện được. Ở giai đoạn sau chúng phải đem quân trực tiếp xâm lược
miền Nam, hòng biến nửa nước ta thành căn cứ
quân sự Mỹ.
Về kinh tế, chúng cho phát triển kinh
tế tư bản tự do cạnh tranh, bóc lột, với sự đầu tư về vốn liếng, về nguyên liệu
của Mỹ và của một số nước tư bản chư hầu. Nền kinh tế miền Nam ngày càng lệ thuộc Mỹ để từ đó dễ bề
chi phối xã hội miền Nam cả về chính trị, quân sự và các mặt
khác.
Về văn hoá xã hội, chúng thực hiện
nhiều chính sách nhằm phá hoại văn hoá dân tộc một cách có hệ thống có sự chỉ đạo
chặt chẽ về tổ chức. Chúng cho du nhập bừa bãi tất cả các cặn bã văn hoá, văn
nghệ tư bản đồi truỵ phương Tây. Tuy chúng có đưa ra một số cải cách mị dân, nhưng
điều chủ yếu là nhằm tạo nên một giai cấp tư sản mại bản trung thành với đế quốc
Mỹ, sống chết dựa vào đồng đô-la Mỹ và thông qua giai cấp tư sản cùng chính quyền
tay sai và cả đội quân xâm lược Mỹ, để reo rắc “lối sống Mỹ”, chủ nghĩa thực dân
Mỹ tại miền Nam Việt Nam, phục vụ cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Để đối phó với cuộc chiến đấu của toàn
thể nhân dân ta chống đế quốc Mỹ, chống chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ, Ngô Đình
Diệm đã tuyên bố đây “là một thứ chiến tranh lý tưởng đối đầu với lý tưởng”. Với
tiềm lực kinh tế và quân sự lớn nhất trong phe đế quốc, đế quốc Mỹ cố sức thực
hiện mưu đồ giành bá quyền trên trận địa tư tưởng, văn hoá. Song song với bạo lực,
nhà cầm quyền Mỹ - nguỵ tại miền Nam mở ngay cuộc tiến công chống cách mạng
trên trận địa ý thức hệ. Rõ ràng là đế quốc Mỹ cùng bọn tay sai đã dành cho văn
hoá, văn học, nghệ thuật một vị trí đặc biệt quan trọng trong các mưu đồ thống
trị nhân dân ta, dùng văn hoá, văn học, nghệ thuật làm một công cụ đắc lực để bảo
vệ chế độ thực dân mới.
Những tình hình trên đây đã làm lộ rõ
bộ mặt, bản chất, âm mưu, thủ đoạn của văn hoá thực dân mới, đã bóc trần chính
sách văn hoá của Mỹ - nguỵ, đã quy định một số đặc điểm của văn hoá thực dân mới
tại miền Nam nước ta.
I. Âm mưu và thủ đoạn của văn hoá thực dân mới
Văn hoá thực dân mới là một âm mưu, là
một chính sách của Mỹ tiến hành trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Nó còn là một phương tiện xâm lược
của đế quốc Mỹ. Âm mưu và phương tiện này được thực hiện trên cơ sở những âm mưu
về quân sự, chính trị, kinh tế. Bởi vì, âm mưu về văn hoá của chúng được tiến hành
dựa trên sự viện trợ về kinh tế một cách ồ ạt và liên tục trong nhiều năm cùng
với việc du nhập “lối sống Mỹ” vào miền Nam.
Âm mưu về chính trị của đế quốc Mỹ là
nhằm lập lên một bộ máy chính quyền, một đội quân đánh thuê cũng là để làm cơ sở
triển khai âm mưu về văn hoá, tác động vào tư tưởng, đời sống của nhân dân.
Về quân sự, chúng gây nên một cuộc
chiến tranh tàn khốc và qua những hành động quân sự, chúng lại thực hiện âm mưu
về văn hoá. Chúng dùng hơn nửa triệu quân xâm lược để đàn áp cách mạng, nhưng đây
cũng là hơn nửa triệu quân viễn chinh mang “lối sống Mỹ” đồi truỵ, tàn bạo, nguồn
gốc của nhiều cảnh tượng xã hội xót xa, đau lòng.
Đối với chủ nghĩa thực dân cũ, sau
khi chiếm đất đai, lập xong bộ máy cai trị với những tên thực dân chính quốc cùng
với bọn bù nhìn bản xứ, thì coi như nó đã đạt được mục tiêu, và ít ra đội quân
xâm lược chiếm đóng vẫn còn đó, có thể làm nốt những gì chúng chưa thực hiện được.
Nhưng với chủ nghĩa thực dân mới, nhất
là chủ nghĩa thực dân kiểu Mỹ, mà lại đứng trước Việt Nam, một dân tộc có truyền
thống chống ngoại xâm lâu đời, có tinh thần tự lập tự cường, có ý chí bất khuất,
đã được tôi luyện trong lịch sử lâu dài đấu tranh chống các kẻ thù xâm lược
hung hãn nhất trên thế giới thì việc chiếm đất đai và việc lập xong bộ máy chính
quyền chưa phải là mục tiêu cuối cùng của cuộc xâm lược. Chúng còn phải thực hiện
được âm mưu về tư tưởng và văn hoá, mà mục đích cụ thể là làm cho nhân dân ta mất
ý thức dân tộc, thậm chí mất cả ý thức về bản thân mình. Chỉ đến lúc ấy chúng mới
có thể an tâm và xem là đã hoàn thành được mục tiêu xâm lược miền Nam Việt Nam.
Cho nên, âm mưu về văn hoá cũng là một
mục tiêu quan trọng trong toàn bộ âm mưu xâm lược đất nước ta của đế quốc Mỹ. Đó
cũng là một phương tiện để xâm lược được sử dụng trên cơ sở những âm mưu quân sự,
chính trị, kinh tế và những âm mưu này lại làm điều kiện cho phương tiện văn hoá
phát huy tác dụng.
Văn hoá thực dân mới lấy ý thức hệ tư
sản phản động hiện đại làm nền tẳng. Ý thức hệ tư sản này là ý thức hệ tư sản ở
thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, giai đoạn
tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Nhưng không dừng lại ở mức độ đó, văn hoá thực dân
mới còn sử dụng tất cả những yếu tố phản động nhất và lạc hậu nhất, chẳng những
của giai cấp tư sản, giai cấp phong kiến, mà của cả các thế lực phản động khác,
các phần tử thoái hoá và biến chất trong phong trào công nhân, bọn phản động quốc
tế giả danh cách mạng. Văn hoá thực dân mới cũng tiếp nhận và khai thác triệt để
những thành quả của sự phát triển khoa học kỹ thuật trong thời đại hiện nay.
Cho nên tính chất văn hoá thực dân mới rất phức tạp và chính bản chất này được
thể hiện rõ ở nội dung và thủ đoạn quán xuyến nhất, chủ yếu nhất của nó là chống
cộng và nguỵ dân tộc.
Chống cộng gắn liền với nguỵ dân tộc.
Chống cộng đồng thời là chống độc lập dân tộc và chống độc lập dân tộc ở đây chính
là chống độc lập chân chính, chống thống nhất đất nước, nhằm dựng dậy cái chiêu
bài “quốc gia”, “dân tộc” để chống lại cái dân tộc chân chính của chúng ta. Đế
quốc Mỹ chống cộng để xâm chiếm miền Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa
kiểu mới, thành căn cứ quân sự của chúng tức là chống lại nền độc lập chân chính
của chúng ta. Để thực hiện âm mưu đó, chúng đã tìm cách lừa bịp, giương lên ngọn
cờ độc lập giả hiệu, nguỵ dân tộc, nguỵ hoà bình.
Một thủ đoạn khác là chúng tiến hành
chiến tranh tâm lý một cách phổ biến và rộng rãi. Chiến tranh tâm lý được tiến
hành trong suốt thời kỳ chiến tranh xâm lược. Nó được coi là một thủ đoạn chiến
lược. Bộ máy thông tin tuyên truyền của chúng luôn luôn tìm cách đánh vào tâm lý
quần chúng, khai thác những mặt tiêu cực nhất của tâm lý xã hội để truyền bá những
ý thức tư tưởng phản động trong nhân dân.
Một thủ đoạn hiểm độc khác nữa là chúng
cho du nhập và truyền bá vào miền Nam nước ta một lối sống mà ta thường gọi
là lối sống Mỹ. Trên cơ sở của sự xâm lược về quân sự và kinh tế, lối sống này
có đặc điểm chủ yếu là tạo nên những con người theo cái khuôn mẫu của chúng, nhằm
thực hiện cho được mục tiêu xâm lược, xoá bỏ và thủ tiêu tính chất dân tộc, tâm
hồn dân tộc Việt Nam. Chúng muốn xoá bỏ mọi ý thức dân tộc chân chính, xoá bỏ ý
thức về giai cấp và ý thức về nhân bản, về bản thân từng con người trên tất cả
các mặt. Về chính trị cũng như về nhân sinh quan, về lối sống cũng như về cách
nhận thức thẩm mỹ, chúng đều cố tạo ra một loại người mà có ý kiến gọi là “người
nô lệ hân hoan”, “người nô lệ sung sướng” hoặc là “người nô lệ kiêu hãnh”. Có lẽ,
từ ngữ “người nô lệ tự nguyện” là tương đối thích hợp hơn cả. Chúng tôi muốn trích
dẫn ở đây ý kiến của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam trước đây
nói về ý nghĩa của từ ngữ này đăng trên tạp chí “Đối diện”, số tháng 3 năm 1972
: “Phải dùng mọi thủ đoạn ồ ạt và tinh vi để tạo nên những đứa con hoang câm và
điếc của chiến tranh ; phải xúi giục và đôn đốc, hướng dẫn, khích lệ những đứa
con hoang chó đẻ khác, những đứa con nghèo đói của chiến tranh để chúng nó chiến
đấu và chết cho chiến thắng của chúng ta (tức là Mỹ - B.T.). Phải làm thế nào để
chúng nó hăm hở, bền bỉ chiến đấu cho quyền lợi xứ sở chúng ta mà chúng vẫn cứ
nuôi ảo tưởng chiến đấu và chết cho quê hương của chúng nó”. Có thể nói, đây là
một câu nói rất láo xược, tiêu biểu cho âm mưu và mục tiêu mà đế quốc Mỹ định đạt
được về mặt văn hoá và tư tưởng. Chúng cố tạo nên “những đứa con hoang câm và điếc”,
với những đặc điểm chủ yếu sau đây :
Hoài nghi và mất hết tinh thần trách
nhiệm đối với bản thân, đối với xã hội và đối với dân tộc, nghĩa là một loại người
hoài nghi, không còn lòng tin và không có lý tưởng.
Mơ hồ, không còn biết và cũng không cần
phân biệt phải trái, trắng đen, cho cuộc đời tất cả là phi lý.
Ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa cực đoan, ích
kỷ cao độ, chỉ biết sống vì mình, còn thì “sống chết mặc bay”.
Khinh lao động, ngại sản xuất, thích ăn
bám người khác, thích hưởng thụ một cách dễ dãi.
Sùng ngoại, kém tinh thần dân tộc, vì
đã hoài nghi mơ hồ mọi lý tưởng và giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc thì
tất nhiên sẽ dẫn tới sự sùng bái tư tưởng và văn hoá của nước ngoài một cách mù
quáng ; không còn phân biệt đâu là tinh hoa, đâu là nọc độc của những nguồn tư
tưởng và văn hoá đó nữa.
Chúng tôi vừa nêu lên một cách vắn tắt
năm đặc điểm chủ yếu của những “đứa con hoang câm và điếc” mà chủ nghĩa thực dân
mới định nhào nặn nên tại miền Nam Việt Nam. Đây là mục đích thực sự của âm mưu
văn hoá của đế quốc Mỹ đối với chúng ta. Nhưng toàn bộ âm mưu của chúng là không
thể thực hiện được, vì bản thân những âm mưu đó có những mâu thuẫn mà chúng không
thể khắc phục được : mâu thuẫn giữa âm mưu về tư tưởng và văn hoá với sự thất bại
về quân sự và chính trị của Mỹ. Âm mưu thâm độc như thế nhưng chúng vẫn đi từ
thất bại này đến thất bại khác. Mỗi lần thất bại trên chiến trường thì tất cả
những gì đạt được trước đó đều bị mất đi, chúng đã phải thay đổi kế hoạch và lại
lao vào làm lại. Vì thế mà đế quốc Mỹ luôn luôn ở trong một trạng thái không ổn
định, khiến cho nhiều chính khách Mỹ thường than thở là Mỹ đã “chọn nhầm đối tượng,
chọn nhầm địa điểm” khi áp đặt chủ nghĩa thực dân mới tại Việt Nam.
Chúng nêu khẩu hiệu “quốc gia dân tộc”
(thực chất là nguỵ dân tộc), cho nên chúng gặp một mâu thuẫn giữa nguỵ dân tộc
và dân tộc chân chính. Nhân dân ta, các anh chị em trí thức và sinh viên, thanh
niên ở các đô thị miền Nam đã lợi dụng sự mâu thuẫn đó làm vũ
khí để chống lại các âm mưu tư tưởng và văn hoá của địch.
Chúng muốn tạo nên một lối sống hoài
nghi và mơ hồ trong thanh niên, trong quân đội và nhân dân, nhưng chúng lại cần
có một ý chí và sức chiến đấu trong quân đội đánh thuê của chúng, điều mà chúng
không thể nào tạo nên được. Tất cả, từ bọn tướng tá, sĩ quan cấp dưới cho đến
binh lính của địch luôn luôn ở trong một tâm trạng chán chường, hoài nghi không
biết mình làm gì, không biết mình chiến đấu cho ai và kết quả sẽ đi đến đâu ?
Chúng tạm thời gắn bó với nhau chỉ vì chiến tranh tâm lý, vì sự kìm kẹp của các
lực lượng mật vụ, và vì chính sách kinh tế, các khu gia binh, các tổ chức quân
tiếp vụ, các chế độ lương bổng và thưởng phạt.
Chúng không thể thực hiện được âm mưu
của chúng, vì những thất bại về quân sự, chính trị, ngoại giao đã lôi cuốn theo
những thất bại về tinh thần, về tư tưởng và văn hoá.
Sau hết, chúng không thể thực hiện được
còn vì sự chống đối dữ dội của nhân dân ta, một nhân dân đã từng được hun đúc
trong các truyền thống văn hoá, đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
Lực lượng đấu tranh mạnh mẽ nhất để
chống lại những âm mưu nô dịch về văn hoá của Mỹ - nguỵ trước hết là chế độ xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hậu phương lớn ấy xuất hiện như một căn cứ địa cách mạng
về cả vật chất, tinh thần, văn hoá, tư tưởng, là nơi mà nhân dân ta đã xây dựng
được một nền văn hoá phát huy các truyền thống văn hoá dân tộc, tiếp thu có sáng
tạo các giá trị văn hoá của nhân loại. Nền văn hoá đó đã toả ánh sáng mạnh mẽ và
cổ vũ tất cả những người chiến đấu ở tiền tuyến và cả những người sống ở vùng địch
tạm chiếm (bằng nhiều con đường mà vai trò quan trọng lúc bấy giờ là các đài phát
thanh của ta).
Một lực lượng khác là lực lượng chiến
đấu tại chỗ. Lực lượng chiến đấu tại chỗ có nhiều loại. Một lực lượng có sự lãnh
đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản, của cách mạng. Những lực lượng khác không có sự
lãnh đạo trực tiếp, bao gồm những người yêu nước, những người có thiện chí thật
sự với cách mạng, tuy chưa tán thành quan điểm của chủ nghĩa cộng sản, họ thấy
rõ bộ mặt thật của đế quốc Mỹ nên đã chống đối mạnh mẽ dưới nhiều hình thức khác
nhau.
Một lực lượng khác nữa có tác dụng chống
lại văn hoá thực dân mới là truyền thống về ý thức dân tộc rất sâu sắc và rất mạnh
trong mỗi người Việt Nam, trong mỗi gia đình Việt Nam. Nhiều ý nghĩ, nhiều hành động về văn
hoá và tư tưởng chống lại nếp sống của kẻ thù đã diễn ra hàng ngày hàng giờ
trong từng con người, trong từng gia đình và từng tập thể.
Đến bây giờ, chúng ta càng thấy rõ là
tuy âm mưu của chủ nghĩa thực dân mới cực kỳ phản động, phức tạp và hiểm độc,
phương tiện mà chúng nó sử dụng rất hiện đại và khổng lồ, nhưng chúng không sao
thực hiện được âm mưu của chúng. Ngay ở những nơi chúng kìm kẹp, xây dựng được
bộ máy thống trị hai, ba chục năm liền, vẫn có sự chống đối một cách mạnh mẽ,
gay gắt.
II. Chính sách văn hoá thực dân mới
Với bản chất của
một tên đế quốc vô cùng độc ác, với mưu đồ lập ra tại miền Nam Việt Nam một
“quốc gia dân chủ” giả hiệu, với những thủ đoạn cực kỳ nham hiểm, chính sách
văn hoá, văn nghệ của Mỹ-nguỵ tập trung vào mấy điểm chủ yếu mà trong quá trình
tìm hiểu, chúng tôi đã bước đầu thấy rõ như sau :
1. Chúng ra sức tập hợp đội ngũ trí
thức, văn nghệ sĩ thời thực dân Pháp còn lại, đồng thời đào tạo, xây dựng hẳn một
lớp trí thức, văn nghệ sĩ mới, cả già và trẻ, có quan điểm thù địch với chủ nghĩa
xã hội khoa học để hợp thành lực lượng chống cách mạng, chống cuộc kháng chiến
của toàn dân ta.
Cấp lãnh đạo trực tiếp của các trường
đại học công (do nguỵ quyền quản lý) cũng như nhiều trường đại học tư (do tư nhân
quản lý) phần lớn đều là những người có quan hệ gắn bó với chế độ thực dân mới.
Tiếp cận những người này có đông đảo giáo sư đã tốt nghiệp ở Mỹ về, được nhà cầm
quyền rất ưu đãi, trực tiếp dạy những môn học quan trọng như triết học, sử học,
xã hội học, giáo dục học, chính trị học, nghệ thuật học, … theo quan điểm của
chủ nghĩa tư bản. Tầng lớp giáo sư được biệt đãi này có ảnh hưởng quyết định đối
với sinh viên, nhồi nhét vào đầu óc sinh viên những quan điểm thù địch với chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, đề cao chủ nghĩa tư bản Mỹ, lối sống Mỹ.
Chương trình học tập của sinh viên ở
trường công cũng như trường tư đều nhằm phục vụ cho chế độ thực dân mới tại miền
Nam. Phần lớn chương trình dựa theo các Viện, các trường đại học
Mỹ hoặc Pháp, trong đó các môn ngân hàng, thương mại, quản trị theo lối Mỹ rất được
chú trọng. Nếu là chương trình về khoa học nhân văn, thì tư tưởng chỉ đạo quán
xuyến vẫn là chủ nghĩa chống cộng hoặc các loại triết thuyết không tưởng, siêu
hình nhằm đánh lạc hướng hoặc phá hoại niềm tin của tuổi trẻ vào quê hương, vào
tiền đồ của dân tộc. Nếu là trường nghệ thuật, thì chương trình giảng dạy về lịch
sử nghệ thuật truyền thống dân tộc rất bị xem nhẹ, còn lịch sử hoặc các trào lưu,
khuynh hướng nghệ thuật nước ngoài, kể cả trào lưu nghệ thuật trừu tượng, hình
thức, đồi truỵ khác thì rất được coi trọng, đề cao.
2. Chúng ra sức lôi kéo, mua chuộc trí
thức, văn nghệ sĩ bằng những điều kiện và phương tiện vật chất hiện đại, bằng
việc cho đi tu nghiệp, thực tập dài hạn hoặc ngắn hạn ở Mỹ hoặc ở các nước tư bản
có thái độ thù địch với chủ nghĩa xã hội, bằng nhiều giải thưởng văn học, nghệ
thuật … nhằm tạo cho họ thành những người sùng Mỹ, sống ích kỷ, ham thích hưởng
thụ vật chất, xa rời lý tưởng đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân lao động, vì
sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi hoạ xâm lăng.
Phần lớn các cấp lãnh đạo hiệp hội văn
hoá, nghệ thuật, các cơ quan thông tấn, báo chí, vô tuyến truyền hình, trung tâm
văn học, nghệ thuật, các Viện đại học, Viện văn học, v.v… đều được đi tu nghiệp
ở Mỹ hoặc ở các nước tư bản lệ thuộc hoặc chịu ảnh hưởng của Mỹ như Ca-na-đa, Tây
Đức, Pháp, Nhật Bản, Đài Loan, …
Nhiều ban hát, múa, đoàn kịch nghệ
hay một số đơn vị, tổ chức hoạt động nghệ thuật đều được sự giúp đỡ về tài chính,
về phương tiện kinh doanh của nhà cầm quyền Mỹ-nguỵ. Từ năm 1964 – 1965 trở đi,
nguỵ quyền đã đề ra “giải thưởng văn học, nghệ thuật” để tặng cho những sáng tác
nổi nhất về tinh thần chống cộng, nguỵ dân tộc, nguỵ hoà bình. Nhiều văn nghệ sĩ
đã được chúng thưởng cho những tác phẩm thơ, văn, kịch nghệ, ca nhạc, phim ảnh,
hội hoạ, điêu khắc, …
Chế độ thực dân mới đã tạo ra một đội
ngũ tay sai trong nhiều lĩnh vực văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật. Phần lớn
số này xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản, tư sản, địa chủ, được đào tạo ở nhà
trường Mỹ-nguỵ, chịu ảnh hưởng nặng ý thức hệ tư sản, được bọn chủ Mỹ nuôi dưỡng,
bảo trợ về vật chất và tinh thần. Tầng lớp tay sai thân Mỹ, vong bản này trước đây
đã có nhiều ảnh hưởng độc hại trong quảng đại thanh niên, học sinh, sinh viên ở
các vùng đô thị tạm chiếm và hiện nay đã gây nhiều trở ngại cho việc xây dựng
chế độ mới.
3. Nhờ khả năng có thể tung ra rất
nhiều tiền của và các phương tiện khoa học kỹ thuật cao, đế quốc Mỹ khai thác và
tận dụng triệt để mọi xu hướng hình thức, mọi thể loại, bộ môn văn học, nghệ
thuật chuyên nghiệp hoặc không chuyên nghiệp gồm văn, thơ, kịch nghệ, mỹ thuật,
ca nhạc, điện ảnh, nhiếp ảnh, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, dàn nhạc trẻ,
máy chiếu phim gia đình, ba, sơ-nách-ba, vũ trường, phòng trà, sách báo, hoạ báo
tranh ảnh và nhiều hình thức hoạt động văn nghệ khác nhằm cố tạo nên một bộ mặt
xã hội tư sản, một không khí phồn vinh giả tạo, nhằm thực hiện mục đích cuối cùng
của chúng là truỵ lạc hoá nhân dân ta bằng văn hoá, văn học, nghệ thuật suy đồi,
phản động.
Với mạng lưới
báo chí, nhà xuất bản, hệ thống phát thanh vô tuyến truyền hình và hình thức
hoạt động văn hoá, nghệ thuật rộng khắp ở các đô thị và nhiều vùng nông thôn,
lại được một đội ngũ chuyên nghiệp có nghiệp vụ tốt cùng với sự có mặt của quân
xâm lược Mỹ với nếp sống phóng đãng, truỵ lạc của chúng, bọn Mỹ-nguỵ đã gây ra
từng đợt cuồng phong, tác động mạnh đến nền móng luân lý cổ truyền, làm nhiễm
độc cả xã hội vùng tạm bị chiếm trước đây.
4. Sở trường của đế quốc Mỹ và tay
sai là thường xuyên gây không khí căng thẳng, đe doạ, vu khống, đánh đập, bỏ tù,
ám hại mọi trí thức, văn nghệ sĩ nào dám chống lại chúng. Hàng loạt những việc
bắt bớ, giam cầm, thủ tiêu những trí thức tiến bộ, yêu nước trong hơn hai mươi
năm dưới ách thống trị của Mỹ-nguỵ đã chứng minh điều đó.
Như vậy, chế độ thực dân mới Mỹ tại
miền Nam đã cố gắng thi hành một chính sách văn
hoá thực dân mới. Chính sách văn hoá này được chỉ huy chặt chẽ từ bên trong, thông
qua những cốt cán trung thành với chủ nghĩa thực dân mới đã được bố trí nằm
trong các trường đào tạo thuộc nhiều lĩnh vực chính trị, giáo dục, văn hoá khác
nhau, trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoạt động văn hoá, nghệ thuật. Ngoài việc
thực hiện chính sách văn hoá thực dân mới bằng đãi ngộ, khuyến khích vật chất,
bằng đô-la Mỹ, chúng còn dùng cả những biện pháp hành chính thô bạo, bằng sắc lệnh,
nghị định kiểm duyệt khắc nghiệt và cuối cùng là bằng nhà tù, trại giam và giết
chóc người một cách tàn bạo như chúng ta đã biết.
Nếu thấy ở Sài Gòn trước đây, văn nghệ
thực dân mới còn cố khoác cái vỏ bề ngoài loè loẹt, thấy sách báo được xuất bản
bừa bãi, thấy “mỗi nhà văn, nhà nghệ sĩ là chủ nhân ông của họ”, các quyền sáng
tác, suy luận theo ý riêng như báo chí, đài phát thanh Sài Gòn trước đây đã tuyên
truyền mà vội nghĩ rằng chế độ thực dân mới đã ban hành quyền tự do của con người,
tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, … thì đó là một nhầm lẫn lớn. Chính sách văn
hoá của chúng không khác gì hơn là huỷ diệt mọi truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
mở rộng cửa cho các nguồn tư tưởng, các khuynh hướng nô dịch của chủ nghĩa thực
dân cũ lẫn mới tràn vào đầu độc nhân dân ta.
III. Một số đặc điểm của văn hoá thực dân mới
Chủ nghĩa thực dân mới chi phối và
quyết định âm mưu, thủ đoạn, chính sách, đặc điểm của văn hoá thực dân mới. Chế
độ thực dân mới tại miền Nam Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn khủng hoảng
cho đến khi sụp đổ. Do tác động của bối cảnh lịch sử trong từng giai đoạn, có lúc
trào lưu, khuynh hướng văn hoá, nghệ thuật này xuất hiện, khuynh hướng văn hoá,
nghệ thuật kia tạm lắng xuống, song về đại thể, chúng ta vẫn có thể xác định được
một số đặc điểm chủ yếu của văn hoá thực dân mới trong hơn hai mươi năm tại miền
Nam Việt Nam.
1. Tính chống cộng thô bạo và triệt để
Trong những năm thời Diệm-Nhu, các tên
bồi bút văn nghệ chống cộng ra sức xuyên tạc cuộc kháng chiến của dân tộc ta do
Đảng lãnh đạo, coi đó là một cuộc chiến tranh “ý thức hệ”, vu khống chủ nghĩa cộng
sản giết chết cá tính, thủ tiêu quyền tự do của con người, gieo rắc không khí
ngờ vực, sợ hãi những người kháng chiến, những người cộng sản, chế độ xã hội chủ
nghĩa, làm cho nhân dân ngày càng xa rời mục tiêu đấu tranh chống Mỹ-nguỵ, để
chủ nghĩa thực dân mới dễ bề thực hiện âm mưu chia cắt đất nước ta, biến miền
Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ.
Trong nhiều tác phẩm văn học, nghệ
thuật ở thời kỳ này, cán bộ kháng chiến, những người cộng sản được chúng mô tả
là những người tàn bạo, dâm loạn, vô nhân đạo, hiếu chiến. Mặt khác, bọn bồi bút
tâm lý chiến cũng ra sức tô vẽ cho “chủ nghĩa quốc gia”, cho “chủ nghĩa cần lao
nhân vị” của Diệm-Nhu, ca ngợi chế độ Mỹ-nguỵ là chế độ nhân đạo, tự do, dân chủ,
được lòng dân và trắng trợn hơn, chúng còn hô hào Bắc tiến, “giải phóng quê hương”.
Sau khi Diệm bị lật đổ, nhất là khi
quân viễn chinh Mỹ ồ ạt vào miền Nam, chiều hướng chống cộng được chúng tiếp tục
tăng cường, nhưng với những luận điệu tuyên truyền, những khẩu hiệu khác hơn,
tinh vi hơn. Chúng khoét sâu hơn sự tàn phá của chiến tranh, dù đó là chiến
tranh chống thực dân Pháp trước kia hay chống đế quốc Mỹ hiện nay, nhằm làm cho
đồng bào ta chùn bước, không phân biệt giữa chiến tranh xâm lược và chiến tranh
chống xâm lược, hoài nghi về thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước. Nếu trước kia, chúng kết tội cộng sản chia cắt đất nước, nói
xấu chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em thì
nay chúng vu cáo rằng “cộng sản miền Bắc xâm lăng miền Nam”, rằng cuộc chiến
tranh hiện nay là chiến tranh “huynh đệ tương tàn” do tham vọng của cộng sản gây
nên. Chúng tuyên truyền cho sức mạnh vô địch của đế quốc Mỹ về kinh tế, về quân
sự, để gây nên sự khiếp sợ trong quần chúng, làm giảm lòng tin ở cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Chúng giả vờ nói
tới tình thương, hoà bình, từ bi, bác ái, tuyên truyền một chủ nghĩa nhân đạo
mơ hồ không phân biệt đâu là thù, đâu là bạn. Chúng giả bộ khóc than, rên rỉ
trước những thảm hoạ của chiến tranh “nồi da xáo thịt” để từ đó mà kết tội cộng
sản và ru ngủ đồng bào ta cam tâm sống an phận dưới ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân mới. Chúng giả vờ chửi Mỹ, chửi nguỵ, hay vừa chống Mỹ vừa chống cộng
(giữa lúc nhân dân ta đang chiến đấu quyết liệt chống bọn xâm lược Mỹ) để được
lòng dân, tranh chấp quần chúng với cách mạng, để có được uy tín chống cộng sản
của ta, bôi xấu chế độ xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, từ ngày
đưa Ngô Đình Diệm, sau đó đưa những tên tay sai khác và cuối cùng là đưa Nguyễn
Văn Thiệu lên nắm quyền ở miền Nam, đế quốc Mỹ luôn luôn nhằm mục tiêu biến
miền Nam Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới, luôn luôn coi chống cộng là một
quốc sách. Chúng đã tận dụng vũ khí văn học, nghệ thuật để phục vụ cho quốc
sách đó. Tính chống cộng thô bạo, tinh vi và triệt để đã được thể hiện quán
xuyến trong toàn bộ các sáng tác, khảo cứu, lý luận, phê bình, dịch thuật thuộc
các bộ môn văn hoá, nghệ thuật. Tính chống cộng này biểu hiện dưới nhiều màu
vẻ, sắc thái khác nhau, ở mức độ nặng nhẹ khác nhau trong các trào lưu văn hoá,
nghệ thuật, lịch sử, giáo dục triết học, tôn giáo, xã hội, … Tất cả
đã gieo vào đầu óc thanh niên một sự ngộ nhận về chủ nghĩa cộng sản, tuyên
truyền cho chủ nghĩa tự do cá nhân, hưởng thụ, sống gấp để cuối cùng làm tay
sai cho Mỹ-nguỵ, cầm súng bắn giết đồng bào.
Nhìn chung, văn hoá nghệ thuật chống
cộng tuy không đạt được mục tiêu mà đế quốc Mỹ mong muốn, nhưng nó đã gieo rắc
trong một bộ phận nhân dân đô thị một số ảo tưởng về “Quốc gia độc lập”, những
hiểu lầm sâu sắc về chủ nghĩa cộng sản, chí ít cũng làm cho lớp người này ghét
hoặc không thích chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Những ảo tưởng và ngộ nhận
này phải có thời gian dài mới gột được sạch.
2. Tính nguỵ dân tộc sâu sắc và có hệ
thống
Muốn khuất phục một dân tộc, bao giờ
cũng vậy, quân xâm lược phải ra sức tiêu diệt được tinh thần của dân tộc đó, mà
tinh thần dân tộc lại được kết tinh trong nền văn hoá cổ truyền. Nhưng nếu vấp
phải sức phản kháng mãnh liệt và bền bỉ của cả dân tộc như dân tộc Việt Nam ta chẳng hạn, thì ít nhất quân xâm lược
cũng tìm mọi phương sách cho nền văn hoá bản địa dần dần biến chất, lai căng, mất
dần những bản sắc tốt đẹp của mình. Vì thế một mặt, đế quốc Mỹ cho du nhập vào
miền Nam các “món hàng tư tưởng” thuộc ý thức hệ tư sản lạc hậu, phản động, mặt
khác, chúng cũng ra lệnh cho bọn tay sai bản xứ bày ra lá cờ dân tộc giả hiệu để
tranh chấp quần chúng nhân dân với những người kháng chiến, yêu nước. Vì trong
thời đại ngày nay, khi cách mạng giải phóng dân tộc đang liên tục tiến công chủ
nghĩa thực dân cũ và mới trên quy mô toàn thế giới, thì chúng không thể không nói
đến dân tộc được.
Chúng khôi phục và triệt để khai thác
ý thức hệ phong kiến, tìm mọi cách lợi dụng các tôn giáo, từ Phật giáo, Lão giáo
đến Khổng giáo, khuyến khích truyền bá nhiều thứ đạo giáo khác vốn có tại miền
Nam hoặc du nhập từ nước ngoài, tạo điều kiện cho những giáo lý lạc hậu, phản động
lan tràn hòng trói buộc nhân dân ta, ru ngủ bà con ta sống an phận dưới ách thống
trị của chủ nghĩa thực dân mới.
Chúng khai thác các hình thức hội hè,
đình đám, tế lễ, tập tục mê tín, dị đoan cổ lỗ, lạc hậu để làm mê muội, bần cùng
hoá nhân dân ta. Chúng tích cực khai thác mặt tiêu cực xuyên tạc những truyền
thống đạo đức, văn hoá cổ truyền của dân tộc ta để tuyên truyền cho tinh thần dân
tộc phong kiến hoặc tư sản phản động.
Chúng nhấn mạnh và thổi phồng “tính độc
đáo” của văn hoá miền Nam với cả “hệ thống tư tưởng chính trị, thể chế, phong tục,
tập quán riêng” để gây tinh thần chia rẽ Bắc – Nam, tạo nên chủ nghĩa biệt lập
trong đồng bào miền Nam. Thực hiện âm mưu thâm độc trên, chúng khuyến khích viết
về “Lịch sử văn học miền Nam”, “Pháp thuộc sử”, “Lịch sử nội chiến”, “Lịch sử
chiến tranh tại Việt Nam”, Lịch sử thần học, Lão tử, Trang tử, Khổng tử, nguyên
tử và hư vô, triết học đông phương, quốc học Việt Nam. Chúng tăng cường giới
thiệu có hệ thống các trào lưu, khuynh hướng triết học tư sản phương Tây như chủ
nghĩa nhân vị, chủ nghĩa hiện sinh, cấu trúc luận, phân tâm học, chủ nghĩa thực
dụng và các loại triết lý duy tâm siêu hình khác.
Nhìn chung mọi hoạt động văn hoá của
Mỹ-nguỵ đều nói đến miền Nam như một quốc gia độc lập, tự do, một
dân tộc có chủ quyền mà đế quốc Mỹ chỉ là bạn đồng minh. Bọn Diệm Nhu đã tổ chức
“Đại hội văn hoá dân tộc” và Ngô Đình Diệm đã từng tuyên bố : “Phải phát dương
cổ suý vốn văn nghệ dân tộc …”. Trong những năm cuối cùng của chế độ nguỵ quyền,
một số trí thức, văn nghệ sĩ trung thành với đế quốc Mỹ đã dốc sức thực hiện chính
sách văn hoá giáo dục “dân tộc”, nhân bản, “khai phóng” do chúng đề ra nhằm đối
phó với đường lối văn hoá, văn nghệ dân tộc và cách mạng của chúng ta.
Trong suốt hai
mươi năm dưới ách thống trị của bọn Mỹ-nguỵ tại miền Nam Việt Nam, đông đảo
nhân dân ta ở đô thị và nông thôn vùng tạm bị chiếm đã liên tục chống lại văn
hoá, văn nghệ nguỵ dân tộc, phi nhân bản đó, cùng với các loại văn hoá tiêu thụ
thương mại khác mà chúng đã tích cực chủ trương và cổ vũ.
3. Tính dâm ô, đồi truỵ
Khuyến khích văn hoá, văn nghệ dâm ô,
đồi truỵ bao giờ cũng là một chủ trương của chủ nghĩa nô dịch, dù là của thực dân
Pháp trước đây hay đế quốc Mỹ về sau này. Không lôi kéo được con người theo chủ
nghĩa quốc gia chống cộng hoặc lý tưởng cần lao nhân vị, thì phải truỵ lạc hoá
con người, tạo ra một kiểu người sống không lý tưởng, nói đúng hơn là một kiểu
người chạy theo lối sống gấp, lối sống sa đoạ, xem mục đích của cuộc đời, động
cơ hành động của con người chẳng qua là vì “dục”, vì “lợi” mà thôi.
Cơ sở xã hội của văn nghệ dâm ô, đồi
truỵ nếu trước đây là lối sống của lớp người đã Pháp hoá thì nay là của lớp người
đang Mỹ hoá. Nhất là từ năm 1965, khi hơn nửa triệu quân xâm lược Mỹ vào miền
Nam thì Sài Gòn và các thành phố đô thị khác xuất hiện hàng vạn vũ trường, phòng
trà, quán nhạc, ba, sơ-nách-ba, … của lớp người chuyên sống bám vào đồng đô-la
Mỹ, vào các dịch vụ của đội quân xâm lược Mỹ, đồng thời là kẻ truyền bá mọi thị
hiếu, nếp sống tồi tệ nhất.
Báo chí, tranh ảnh của nước ngoài như
của Mỹ, Tây Đức, Pháp, Nhật, Đài Loan … xâm nhập vào miền Nam ngày càng nhiều. Phim ảnh khiêu dâm,
kích động của nước ngoài cũng tác động đến thị hiếu và nếp sống của một bộ phận
dân chúng vùng đô thị. Lúc đầu là phim Nhật với nhiều cảnh chơi đùa, thay quần áo,
tắm rửa, làm tình, hiếp dâm, … và sau đó là phim Hồng Công, Đài Loan, Mỹ, Tây Đức,
… mà mức độ gợi tình, kích dục còn đậm nét hơn.
Ca nhạc dâm dật, kích động của nước
ngoài truyền sang nhiều vùng đô thị trước kia qua sự tuyên truyền của đài phát
thanh ngoại quốc, đồng thời qua các chương trình biểu diễn ca vũ nhạc của nước
ngoài trên màn ảnh vô tuyến truyền hình của nguỵ quyền Sài Gòn, cùng với cả một
hệ thống đĩa hát, băng nhạc của nước ngoài hoặc của nguỵ quyền sản xuất đã tràn
ngập thị trường lúc bấy giờ, mà một người cầm bút vùng đô thị tạm chiếm đã lên án
: “Đó là loại nhạc dâm dật, kích động tận cùng bản năng nhục dục, rên la ca tụng
mấy mối tình hậu phương tiền tuyến, sầu thương mấy cái rốn ái tình được hát hàng
đêm trong phòng trà và cái giá bình dân nhất cũng bằng cả tiền lương tháng của
anh binh nhì đang đem sinh mạng ra bảo vệ ván cờ “đô-mi-nô” của các chiến lược
gia Mỹ” (Văn mới (Sài Gòn), số ngày 15-10-1971).
Trên sách báo, tạp chí, báo ra hàng
ngày bằng tiếng Việt, văn chương tình dục và khiêu dâm ngày một bành trướng mạnh.
Trong thơ ca, tiểu thuyết, khảo cứu tâm lý, triết học … ta thường bắt gặp những
trang mô tả, những định nghĩa về nhục cảm, về tình dục một cách lẩm cẩm, vô lý
kéo dài hàng chục trang, thậm chí hàng trăm trang giấy và như có ý kiến đã nói
: “tất cả tạo cho người ta cái cảm tưởng tình dục là vấn đề số một, không có không
được. Đối với một số người ở thành thị thì tình dục là tất cả và tất cả cho tình
dục”.
Một số lớn các nhà làm phim Sài Gòn
thi nhau phát hiện những thân hình khêu gợi, nảy lửa (lời của báo chí Sài Gòn)
qua các cuộc thi chọn “hoa hậu” do nguỵ quyền tổ chức để tuyển lựa tài tử, diễn
viên. Nên kể một số phim truyện tiêu biểu về khuynh hướng sa đoạ này : Hè 72, Bẫy
ngầm, Đời chưa trang điểm, Hè muộn, …
Ngoài các loại sách, nhật báo, tạp chí,
phim ảnh, ca nhạc, hội hoạ, kịch nghệ, thơ ca, tiểu thuyết mà dư luận công chúng
miền Nam đã chê trách, còn phải kể tới những hoạt động thường ngày, rộng lớn,
liên tục của các công ty buôn bán tình dục, từ việc bán dụng cụ trợ dâm, máy làm
nở ngực, tắm hơi, … đến những hội hoạ khoả thân, hội yêu nhau bằng mồm, những bề
hội đồng, những hội bí mật hưởng lạc tập thể, tổ chức CTY (Viết tắt của câu : Cần
tình yêu, cho tình yêu, cướp tình yếu – B.T.), bụi đời, các băng híp-pi thác loạn
không sao kể hết.
Thực trạng xã
hội như thế, sinh hoạt văn hoá, văn học nghệ thuật như thế đã làm biến đổi dần
những quan niệm về sống, về thị hiếu thẩm mỹ của từng bộ phận quần chúng đang
sống trong vòng vây của chủ nghĩa thực dân mới.
Chúng ta có thể khẳng định rằng văn
hoá, văn nghệ chống cộng, nguỵ dân tộc và dâm ô, đồi truỵ đều là công cụ tư
tưởng của đế quốc Mỹ và tay sai nguỵ quyền miền Nam dùng để chống lại các phong
trào đấu tranh đòi thống nhất đất nước nói chung và chống lại nền văn nghệ yêu
nước, cách mạng nói riêng. Tính chống cộng, nguỵ dân tộc và dâm ô, đồi truỵ
được thể hiện một cách dai dẳng, có hệ thống trong toàn bộ văn hoá thực dân
mới, ba trào lưu hay dòng văn hoá, văn nghệ nói trên tuy khác nhau về đề tài,
chủ đề, nhưng mục đích và bản chất của chúng đều giống nhau : làm cho con người
mất hết lý trí và tình cảm tốt lành, xa rời mọi truyền thống văn hoá, đạo đức
tốt đẹp của dân tộc, ngày càng lệ thuộc vào chủ nghĩa hưởng lạc, cực đoan, một
tinh thần cuồng sát, hiếu chiến phản bội đồng bào, trung thành với chế độ của
bọn cướp nước và bán nước.
Tất nhiên những âm mưu và thủ đoạn
thâm độc trên của kẻ thù không phải bao giờ
cũng thực hiện được, càng không phải đồng bào miền Nam ai cũng tin theo, song
nhìn chung ở các vùng tạm bị chiếm và nhất là ở các vùng đô thị miền Nam
thì chúng ta phải khẳng định rằng những âm mưu và thủ đoạn ấy đã gây nên những
tác hại không nhỏ. Bởi vì tuy chưa có một con số cụ thể cho biết rõ trong số
trên một triệu tên lính nguỵ có tất cả bao nhiêu tên đã bị chính sách văn hoá
thực dân mới Mỹ đẩy vào con đường tội lỗi chống lại Tổ quốc, chống lại đồng
bào, song chúng ta vẫn có đầy đủ cơ sở để kết luận rằng con số ấy nhất định
không phải là hàng trăm, hàng nghìn mà là hàng vạn, hàng chục vạn.
Thật vậy, một khi cái nọc độc tư tưởng
chống cộng và nguỵ dân tộc đã xâm nhập được vào cơ thể, một khi những đồng đô-la
vấy máu đã trở thành vạn năng, thành lẽ sống ngự trị xã hội thì việc biến những
con người bình thường thành những tên “nô lệ tự nguyện”, thành những cái máy bóp
cò súng lạnh lùng và tàn ác, thậm chí thành những tên ăn gan uống máu đồng loại,
là một việc làm không phải là quá khó khăn. Vả chăng, lối sống Mỹ với sự thả lỏng
tình dục đến cao độ, với phong trào bụi đời, híp-pi, với thú tính ăn chơi điên
loạn, xì-ke, ma-tuý, v.v… đã làm thui chột biết bao khát vọng lành mạnh của tuổi
trẻ, đã nhào nặn biết bao nam nữ thanh niên miền Nam thành những tên lưu manh,
du đãng, đĩ điếm, những kẻ phạm tội, v.v… mà trước mặt họ chỉ là một con đường đen
tối : làm tay sai và đi lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ.
Những con số khủng khiếp sau đây giúp
chúng ta hình dung được phần nào những hậu quả cực kỳ trầm trọng và nguy hiểm của
chính sách thực dân mới mà đế quốc Mỹ đã để lại miền Nam nước ta sau khi chúng
buộc phải cuốn gói về nước : trên 3 triệu người thất nghiệp, trên một triệu người
bị tàn phế, 800 nghìn trẻ em mồ côi, hơn 600 nghìn gái điếm, trên 1 triệu thanh
niên nghiện ma-tuý. Riêng thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) đã có
150 nghìn gái mãi dâm, trên hai mươi nghìn phụ nữ ghi tên điều trị bệnh hoa liễu,
hơn 150 nghìn thanh niên nghiện xì-ke, ma-tuý, 300 nghìn tên du đãng, trộm cướp,
200 nghìn trẻ mồ côi, 8 nghìn trẻ bụi đời, hàng triệu người thất nghiệp, hàng
trăm băng cướp theo kiểu găng-xtơ Mỹ, v.v…
Việc khắc phục những hậu quả tai hại
trên tất nhiên là gian khổ, phức tạp và lâu dài, song cái gian khổ, phức tạp và
lâu dài hơn chính là những di hại về tinh thần, tư tưởng và lối sống của nền “văn
minh” Mỹ mà hiện nay chúng ta đang phải khẩn trương và kiên trì xoá bỏ.
IV. Hậu quả và tàn dư của văn hoá thực dân mới
Tuy đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai
của chúng đã thất bại về quân sự, chính trị, nhưng cho đến nay, ảnh hưởng, tác
hại về mặt tư tưởng và văn hoá do chúng gây ra trong nhân dân còn khá nặng nề. Ảnh
hưởng và tác hại này biểu hiện ở hành động hàng ngày, ở thái độ đối xử với gia
đình, và với xã hội, với tập thể, với quê hương đất nước, và nói rộng ra là ở
những suy nghĩ về cuộc sống, về thế giới quan, ở tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của
đông đảo đồng bào ta trước đây đã sống trong vùng địch.
Nhưng không phải ai cũng thấy rõ như
vậy. Hiện nay vẫn còn ý kiến cho rằng ở miền Nam chỉ có một số ít người chịu ảnh hưởng
của văn hoá, văn nghệ thực dân mới mà thôi. Chúng tôi nghĩ ý kiến này là không
thể đứng vững được. Bởi vì trong những năm trước đây, nhất là trong những năm
1968 – 1970, bọn Mỹ-nguỵ đã chiếm được nhiều vùng đất tại miền Nam, do đó chúng đã khống chế được một số
đông đồng bào ta. Số đông đồng bào này lại bị chúng tập trung vào các đô thị và
thị trấn là những nơi mà văn hoá thực dân mới có điều kiện phát huy, có các phương
tiện hiện đại tác động rộng khắp, thậm chí có thể đi sâu vào tận từng người dân,
từng con người, từng giới, từng lứa tuổi. Trong những điều kiện đó, bọn Mỹ-nguỵ
đã có thể ít nhiều nhồi nhét được vào đầu óc bà con ta những quan điểm chính trị,
đạo đức rất sai lệch.
Dưới sự khống chế gắt gao của quân thù,
mọi tin tức, mọi sự kiện tích cực ở bên ngoài đều bị bưng bít, cái đúng bị xuyên
tạc, cái sai được khuyến khích lan truyền, do đó người nào thiếu tinh thần cảnh
giác chính trị, không có sẵn lòng căm thù giặc cao độ thì sẽ rất dễ bị mất phương
hướng trước nhiều luận điệu chiến tranh tâm lý của địch. Bọn Mỹ-nguỵ lại đã xây
dựng được một đội quân kìm kẹp với số lượng khá lớn, có lúc lên tới hơn một triệu
tên, một bộ máy cai trị với nhiều hệ thống tổ chức, nhiều biện pháp và thủ đoạn
tinh vi khiến con người khó tránh khỏi chịu ảnh hưởng của văn hoá thực dân mới
với mức độ nhiều ít, nặng nhẹ khác nhau. Mức độ ảnh hưởng này biểu hiện rõ nhất
ở tư tưởng và tinh thần của quân nguỵ.
Với tính chất chống cộng và nguỵ dân
tộc được núp dưới một lớp sơn hào nhoáng, văn hoá thực dân mới một mặt đã kích
thích được phần nào “sĩ khí” của bọn nguỵ quân, tạo cho chúng có một niềm tin mù
quáng vào cái gọi là “chính nghĩa quốc gia”, thậm chí đã tạo nên được một số không
nhỏ bọn ác ôn say “lý tưởng chống cộng” đến điên loạn. Nhưng mặt khác, với tính
chất dâm ô và đồi truỵ, văn hoá thực dân mới lại kích thích mạnh mẽ những dục vọng
bản năng thấp hèn, lại kích động cái tâm lý sống gấp, biến những “con người hùng”
của nền văn minh Mỹ thành những con thú đội lốt người ngày càng ngập sâu trong
cái vũng bùn cá nhân hưởng lạc cực đoan. Điều này đã làm cho cái “sĩ khí” nói
trên của quân nguỵ không có cơ sở vững chắc, làm cho cái “lý tưởng chính nghĩa
quốc gia” mà thực chất là chống cộng của chúng trở nên vô nghĩa. Và đây chính là
lý do giải thích vì sao lại có hai trạng thái dường như trái ngược nhau trong
con người của mỗi tên lính nguỵ : vừa ngoan cố nhưng lại vừa hèn nhát và bạc nhược,
vừa hung hãn nhưng lại vừa bi luỵ và chán chường, v.v… Mấy câu thơ sau đây (đã được
đăng trong một tờ báo ở Sài Gòn hồi còn bị tạm chiếm) có thể giúp ta hình dung được
phần nào cái bản chất hai mặt của một tên lính đánh thuê - sản phẩm của chế độ
thực dân mới nói chung và của nền văn hoá thực dân mới Mỹ nói riêng :
“Có thằng say thác loạn,
Đêm đêm dưới ánh đèn
Quay cuồng trong tiệm nhạc,
Sống cuộc đời thiêu thân”.
Ngoài ra, qua những thư của gia đình,
của bạn bè gửi cho sĩ quan, binh lính nguỵ, ta càng thấy rõ nọc độc tư tưởng và
văn hoá của chủ nghĩa thực dân mới đã tiêm nhiễm vào người dân như thế nào. Không
kể những bức thư kiểu “em gái hậu phương”, làm cái trò chiến tranh tâm lý ở trên
đài một cách trắng trợn, thông thường như thư bắt được của chị, của mẹ, của em
hay họ hàng binh lính nguỵ đều được viết bằng những luận điệu rất quen thuộc, sáo
ngữ, nhàm chán. Những bức thư đó cũng sử dụng những từ ngữ “chấp nhận”, “dấn thân”,
“buồn nôn”, “phi lý”, tức là những từ ngữ, khái niệm của chủ nghĩa hiện sinh -
một trong những khuynh hướng triết học phổ biến nhất trước đây tại miền Nam. Những dòng chữ viết nguệch ngoạc của
những người ít học, những câu văn rất cổ
như là “dấn thân ra nơi sa trường”, “gối đất nằm sương”, “thông cảm sự vất vả
khó khăn của người chiến binh ngoài sa trường”, v.v… (và cuối thư bao giờ cũng
có những lời động viên dễ dãi), đã nói rõ mức độ ảnh hưởng của những thứ triết
lý thực dân phản động.
Tàn dư của văn hoá thực dân mới ảnh hưởng
đến nhiều mặt trong nhân dân, nhưng nặng nhất là quan điểm chính trị, đạo đức lệch
lạc, mơ hồ và tâm lý hoài nghi, lối sống thác loạn, ích kỷ, thái độ khinh miệt
và sợ lao động, nhất là lao động chân tay.
Sau khi chiến tranh kết thúc, chúng
ta có thể trong một số năm hàn gắn được vết thương chiến tranh về vật chất, nhưng
còn việc hàn gắn vết thương về tinh thần, tình cảm, tâm hồn, tâm lý, về văn hoá
thì gay go, phức tạp hơn, và có khi phải mất nhiều năm. Ngay sau khi chiến
tranh kết thúc, chúng ta đã dự kiến như vậy và thực tế bây giờ chúng ta càng thấy
đúng là như vậy. Hiện nay, chúng ta chưa hàn gắn xong vết thương chiến tranh về
mặt vật chất. Song những việc này rồi đây ta sẽ giải quyết xong trong một thời
gian không lâu lắm, nhưng những dấu vết, những tác hại của âm mưu thực dân mới
về mặt văn hoá đã in đậm dấu ấn trong tâm hồn, tư tưởng con người thì không dễ
gì giải quyết được trong một kế hoạch 5 năm mà chắc chắn cần phải có thời gian
dài hơn, lâu hơn. Lại phải nói rằng, những dấu vết, những tác hại này có trong
từng người, trong từng gia đình, tuy vô hình nhưng khá sâu và rộng rãi. Đó là một
thực tế mà ta phải thừa nhận, chứ không thể nào đồng tình với ý kiến cho rằng
“không còn gì” hoặc “còn vài cái lặt vặt thôi”.
Những tàn dư văn hoá này tồn tại với đặc
điểm của nó là tiếp tục tác động, tiếp tục truyền nhiễm, lây lan, chứ không phải
như một thực thể vật chất mà ta có thể cắt dần, cắt dần cho đến phần cuối cùng
của nó. Chúng ta phải cảnh giác, vì nó còn tác hại hơn cả mọi thứ nọc độc, hơn
cả nọc độc của rắn.
Ngoài ra, tàn dư văn hoá thực dân mới
còn tồn tại trong một bối cảnh xã hội có những diễn biến đặc biệt. Sau cuộc chiến
tranh lâu dài, gian khổ, tâm lý chung của nhiều người là muốn nghỉ ngơi. Tâm lý
này cũng có mặt chính đáng, cần thiết, nhưng cũng có mặt tiêu cực. Nó nói lên
nguyện vọng muốn nghỉ ngơi, muốn sống thoải mái một chút để bù lại những ngày sống
và chiến đấu gian khổ, quyết liệt trong chiến tranh, muốn được sum họp, đoàn tụ
gia đình, bè bạn thân thuộc để bù lại những ngày xa cách nhau. Bình thường mà nói
thì đây là một nguyện vọng chính đáng, song đặt vào hoàn cảnh đang có cuộc đấu
tranh mới trên mặt trận kinh tế, văn hoá và bảo vệ Tổ quốc, v.v… diễn ra gay gắt,
đang đòi hỏi ở mọi người những hy sinh mới, những gian khổ mới, thì tâm lý muốn
nghỉ ngơi nói trên lại là một trở lực. Mặt khác, nước ta lại vốn là một nước sản
xuất nhỏ, lạc hậu đang trong quá trình đi lên sản xuất lớn, nên trong xã hội còn
tồn tại nhiều tàn dư phong kiến, tư sản. Những yếu tố tiêu cực và lạc hậu ấy còn
kìm hãm đời sống xã hội vốn có nhiều khó khăn của chúng ta. Xã hội chưa thật đã
hoàn toàn trật tự, ổn định, an ninh. Chúng ta chưa xoá được hết những mặt tiêu
cực, những tệ nạn xã hội như tham ô, móc ngoặc, buôn lậu, hối lộ, quan liêu, cửa
quyền, v.v… Hơn nữa, tuy đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã thất bại hoàn toàn về
chính trị và quân sự, nhưng mưu đồ của chúng vẫn còn, đặc biệt là bọn bành trướng
ở phương bắc đang ra sức tìm mọi cách phá hoại ta, ngay cả trong lĩnh vực tư tưởng
và văn hoá. Chúng thực hiện mưu đồ đó qua nhiều con đường khác nhau : hoặc qua
những người di tản, qua hoạt động ngoại giao, qua những cuộc trao đổi quốc tế,
về kinh tế văn hoá, … Đó là chưa nói đến
ngay trong hàng ngũ cách mạng cũng vẫn còn những phần tử lạc hậu, thoái hoá,
biến chất, không theo kịp tình hình, nhất là lúc chúng ta đang gặp khó khăn,
trong những bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tàn dư văn hoá thực dân mới tồn tại trong
bối cảnh xã hội như vậy, nên khi muốn giải đáp tương đối thoả đáng vấn đề này,
chúng ta cần đặt nó trong các mối quan hệ xã hội để phân tích và nhìn nhận một
cách toàn diện, biện chứng. Trong văn hoá thực dân mới có sự xen kẽ của rất nhiều
yếu tố phức tạp, phản động, lạc hậu của các giai cấp tư hữu nói chung. Vì vậy nếu
không có một chỗ đứng vững để nhìn nhận thực tại xã hội thì ta sẽ đi đến chỗ
quy mọi yếu tố tiêu cực trong xã hội cho hậu quả tàn dư của văn hoá thực dân mới.
Hoặc ngược lại cho rằng, thực dân đã sụp đổ thì văn hoá của thực dân sẽ tan, rằng
một khi nhân dân ta đã tống cổ đế quốc ra khỏi đất nước rồi, thì độc hại văn hoá của nó làm gì còn rơi rớt được nữa, rằng những
cái tiêu cực hiện đại là do sự yếu kém của ta, rồi từ đó đi đến hoài nghi bản
chất tốt đẹp của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
Hai cách nhìn
vấn đề như vậy đều không đúng, đều cực đoan. Chúng ta phải tìm hiểu, phân tích
sâu sắc nhiều mặt để giúp cho mọi người phân biệt được chỗ nào là văn hoá thực
dân mới, chỗ nào là hiện tượng lạc hậu còn rơi rớt lại trong mỗi người chúng
ta, trong xã hội chúng ta, trong quá trình tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
từ một nước vốn là sản xuất nhỏ.
Bên cạnh những yếu tố tiêu cực trong
xã hội, chúng ta lại có những yếu tố tích cực rất cơ bản, đó là :
1. Nhân dân ta đã giành được thắng lợi
hoàn toàn về chính trị và quân sự, đem lại độc lập, thống nhất thật sự, trọn vẹn
và vững chắc cho Tổ quốc. Do đó, ý thức dân tộc, ý thức giai cấp, tinh thần trách
nhiệm của nhân dân ta được nâng cao một cách rõ rệt. Điều cơ bản ấy ngược lại với
ý muốn của bọn đế quốc, bọn phản động, của văn hoá thực dân mới.
2. Chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong cả nước bằng cách tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng. Thực hiện ba
cuộc cách mạng ấy tức là chúng ta xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội,
xây dựng nền văn hoá mới, khắc phục những hiện tượng tiêu cực sai trái có thể làm
chỗ dựa cho tàn dư văn hoá thực dân mới.
3. Truyền thống đấu tranh và ý thức dân
tộc của nhân dân ta đã được phát huy rất mạnh mẽ, sâu sắc. Trước đây, khi Mỹ-nguỵ
còn chiếm đóng, nhân dân ta đã phát huy truyền thống trên để chống lại văn hoá
nô dịch, thì bây giờ chúng ta lại càng có điều kiện để làm việc ấy.
Khi đặt vấn đề xoá bỏ tàn dư văn hoá
thực dân mới, chúng ta phải kết hợp chặt chẽ nhiều mặt có liên quan với nhau, vì
tàn dư văn hoá thực dân mới rất tinh vi, lắt léo, thậm chí có khi vô hình. Nếu
không nhìn thấy các mặt phức tạp của nó thì ta dễ mơ hồ, không phân biệt đâu là
tàn dư văn hoá thực dân mới, rồi đâm ra nghi ngờ, đặt vấn đề tại sao ta đã giải
phóng khỏi ách thống trị của chế độ thực dân mới rồi mà vẫn còn hiện tượng
thanh thiếu niên hư hỏng, hay là trong chế độ xã hội chủ nghĩa có điều gì chăng
? Chúng ta cần kiên trì tìm hiểu và phân tích cho được đâu là những hiện tượng
lạc hậu, tiêu cực còn tồn tại trong xã hội ta. Chúng ta phải phân biệt rõ yêu cầu
chính đáng của nhân dân, của quân đội ta sau chiến tranh với những thủ đoạn chiến
tranh tâm lý kích động những bản năng thấp hèn của con người do chủ nghĩa thực dân
mới tung ra. Chúng ta cần khuyến khích những khát vọng, những nhu cầu về cái đẹp,
cái vui của nhân dân, nhất là của thanh niên, trong lao động sáng tạo. Việc thưởng
thức cái đẹp và việc giải trí của chúng ta thật cao thượng và lành mạnh, hoàn
toàn đối lập với thị hiếu thẩm mỹ tầm thường của giai cấp tư sản. Phải động viên
nhân dân sáng tạo và hưởng thụ cái đẹp của nghệ thuật theo quan điểm tiến bộ, cách
mạng. Hướng dẫn quần chúng thưởng thức nghệ thuật tức là giúp họ bồi dưỡng tâm
hồn, tư tưởng của mình, qua đó thêm yêu quý và cổ vũ người nghệ sĩ sáng tạo nhiều
cái hay, cái đẹp trên cơ sở những tinh hoa của nền văn hoá, nghệ thuật cổ truyền
của dân tộc và của nền văn hoá, nghệ thuật tiên tiến trên thế giới. Chúng ta xoá
bỏ, không kế thừa và tiếp thu bất kỳ yếu tố gì của văn hoá thực dân mới.
Trong thưởng thức nghệ thuật hiện
nay, cũng có nhiều người bị ảnh hưởng của quan điểm lỗi thời, phản động, coi thưởng
thức nghệ thuật chỉ là giải trí, “giết” thời gian, chứ không phải để nâng cao,
bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, tư tưởng cho mình. Chúng ta rất chú trọng nhu cầu
giải trí của nhân dân và phải làm hết sức để đáp ứng nhu cầu giải trí của nhân
dân và phải làm hết sức để đáp ứng nhu cầu đó, nhưng chúng ta không chấp nhận
quan điểm coi nghệ thuật chỉ là thứ giải trí. Quan điểm này đưa đến thái độ coi
nghệ sĩ là kẻ làm thuê, xem các tác phẩm nghệ thuật đơn thuần là một loại hàng
hoá.
Trong tình hình cụ thể của xã hội ta
hiện nay, vấn đề tiếp tục đấu tranh xoá bỏ tàn dư văn hoá thực dân mới được đặt
ra không đơn giản. Chúng ta phải có quan điểm đúng để phân tích, phê phán, tránh
vơ đũa cả nắm hoặc sơ lược trong việc giải quyết vấn đề. Theo chúng tôi, văn hoá
thực dân mới đã ra sức lợi dụng những yếu tố tiêu cực, phản động của văn hoá
phong kiến, văn hoá tư sản. Thông thường ta phải kế thừa những yếu tố tiến bộ về
một số mặt của các chế độ cũ để xây dựng chế độ mới. Nền văn hoá mới xã hội chủ
nghĩa của chúng ta có sự kế thừa yếu tố tiến bộ của văn hoá các thời kỳ trước.
Nhưng không phải vì vậy chúng ta lại đặt vấn đề kế thừa văn hoá thực dân mới. Một
lần nữa, chúng ta cần dứt khoát trong vấn đề này. Chúng ta kế thừa những cái
hay, cái đẹp trong vốn văn hoá cổ truyền của dân tộc ta. Chúng ta kế thừa những
yếu tố tiến bộ, tích cực của các thời kỳ trước. Chúng ta tiếp thu có phê phán và
chọn lọc tất cả các tinh hoa của các nền văn minh nhân loại để xây dựng đất nước
ta từ một nước kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành một nước nông nghiệp hiện đại
có văn hoá, khoa học tiên tiến. Nhưng nhất quyết chúng ta không kế thừa bất cứ
một yếu tố nào của văn hoá thực dân mới.
V. Tiếp tục đấu tranh xoá bỏ tàn dư văn hoá thực dân mới
Như chúng ta đều biết, văn hoá, văn
nghệ là một bộ phận rất quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn hoá. Xét đến cùng,
mục tiêu của cách mạng tư tưởng và văn hoá là nhằm cải tạo con người cũ để xây
dựng con người mới, con người xã hội chủ nghĩa.
Trong việc xây dựng chế độ mới, nền
kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải đấu
tranh xoá bỏ những tàn dư về tư tưởng và văn hoá của các chế độ cũ, đặc biệt là
phải nhổ tận gốc rễ những nọc độc về tư tưởng và văn hoá thực dân mới mà đế quốc
Mỹ đã gieo rắc ở miền Nam nước ta trong hơn 20 năm qua.
Sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, Lê-nin
đã từng nói : “Suốt trong thời kỳ quá độ đó, cách mạng sẽ vấp phải sức phản kháng
của tư bản cũng như của rất nhiều tay chân của chúng trong giới trí thức tư sản
là những kẻ đang chống lại một cách có ý thức và sẽ vấp phải sự phản kháng của
khối rất lớn những người lao động – trong đó có cả nông dân - họ đang bị đè quá
nặng dưới những phong tục và tập quán tiểu tư sản, thế lực của những thói quen
và tục lệ cổ truyền tiểu tư sản và thường phản kháng một cách không có ý thức”
(V.I. Lê-nin : Về thời kỳ quá độ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.102).
Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá
VI, đồng chí Lê Duẩn đã phát biểu : “Âm mưu độc ác nhất của đế quốc Mỹ là bằng
mọi cách tàn phá những giá trị đạo đức truyền thống, nếp sống lành mạnh của nhân
dân ta, truỵ lạc hoá và lưu manh hoá thanh niên, cố xoá những gì là Việt Nam
trong tâm hồn họ, làm cho họ mất hết ý thức về phẩm giá con người và trách nhiệm
đối với Tổ quốc và dân tộc. Mấy chục năm qua, nhân dân ta ở miền Nam đã kiên
quyết chống lại “văn hoá” thực dân mới, giữ vững và phát huy những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc …”.
Về phương hướng đấu tranh xoá bỏ tàn
dư văn hoá thực dân mới, chúng tôi xin nêu hai vấn đề :
1. Về phương châm :
Để quét sạch tàn dư của văn hoá thực
dân mới, chúng ta phải kết hợp chặt chẽ cải tạo với xây dựng. Phương châm của
chúng ta là : trong cải tạo có xây dựng để cải tạo, mà xây dựng là chính. Phương
châm này thể hiện tính ưu việt, bản chất nhân đạo, sức cảm hoá và thu phục lòng
người của chế độ xã hội chủ nghĩa mười lần tươi đẹp của chúng ta.
Trước đây, để
chống phá cách mạng, đế quốc Mỹ và tay sai đã “bôi đen” hầu hết mọi người sống
trong vùng kìm kẹp của chúng bằng nhiều thủ đoạn lừa mị, cưỡng ép và bằng mọi
thứ công cụ, kể cả lợi dụng giáo lý và thần quyền.
Ngày nay, khi đế quốc Mỹ đã phải cuốn
gói, chính quyền tay sai đã bị “lật nhào” thì một trong những nhiệm vụ quan trọng
của chúng ta là phải giải phóng quần chúng nhân dân khỏi sự trói buộc về tư tưởng,
tinh thần, phải kéo họ về phía ánh sáng của cách mạng, đưa họ từ địa vị người nô
lệ, người bị áp bức lên địa vị người làm chủ, người tự do.
Với chính sách đúng đắn, đầy lẽ phải
và tình thương của Đảng trong lĩnh vực văn hoá và tư tưởng đã được thực hiện
trong mấy năm qua ở các vùng giải phóng, đặc biệt là ở các vùng đô thị miền
Nam, chúng ta đã thu được những kết quả đáng mừng trong cuộc đấu tranh giành lại
những con người đau khổ - nạn nhân của chế độ cũ – trong cuộc phấn đấu kiên nhẫn
để xây dựng con người mới trong các tầng lớp nhân dân, tạo nên những cơ sở ban đầu
của cuộc sống mới về tinh thần, văn hoá.
Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh trên
mặt trận văn hoá, tư tưởng vẫn còn khá phức tạp. Bên cạnh những cái hay, cái đẹp,
những người tốt, việc tốt xuất hiện ngày càng nhiều thì những cái hư, cái xấu,
những rác rưởi đồi truỵ vẫn còn và đang xâm nhập vào một bộ phận nhất định
trong nhân dân.
Để tiếp tục giành những thắng lợi to
lớn hơn nữa cho cuộc đấu tranh này, chúng ta phải luôn luôn nắm chắc mặt trận văn
hoá, tư tưởng. Phải phối hợp tất cả các lực lượng, các phương tiện để tiến hành
một cuộc đấu tranh có kế hoạch, thích hợp với từng đối tượng, sát với tâm tư, tình
cảm, nguyện vọng của mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp xã hội, không chỉ bằng
tuyên truyền, giáo dục mà bằng nhiều hình thức phong phú của công tác văn hoá,
tư tưởng với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, đặng tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho công tác đấu tranh chống các tàn dư văn hoá lai căng, đồi
truỵ, phản động của chủ nghĩa thực dân mới.
Cần phát động một phong trào quần chúng
rộng rãi, làm cho quần chúng thấy rõ âm mưu thâm độc, các thủ đoạn tinh vi và tác
hại độc ác của văn hoá thực dân mới để họ tự giác đấu tranh xoá bỏ tàn tích văn
hoá thực dân mới. Đó là nhiệm vụ của toàn dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng,
chứ không phải chỉ là nhiệm vụ của một số cơ quan, một số ngành chuyên môn.
Phải đấu tranh một cách toàn diện, đồng
bộ, khẩn trương và kiên trì, lấy kết quả tổng hợp của ba cuộc cách mạng (cách mạng
về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn
hoá) để đấu tranh quét sạch những tàn dư nói trên. Toàn diện và đồng bộ có nghĩa
là trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, phải có sự phối hợp của tất
cả các bộ máy, các ngành để mặt này tác động mặt khác. Phải khẩn trương nhưng
không thể nôn nóng đưa ra một hạn định thời gian nào đó mà phải thực sự kiên trì.
Phải rất khẩn trương vì hàng ngày, những tàn dư văn hoá thực dân mới vẫn tác động
vào chúng ta. Chúng ta phải khẩn trương tiến hành ba cuộc cách mạng để đấu
tranh chứ không phải chỉ dựa vào cách mạng tư tưởng và văn hoá mà giải quyết được
các vấn đề.
2. Về nhiệm vụ :
Từ sau khi miền Nam nước ta được giải phóng đến nay, chúng
ta đã tiến hành cuộc đấu tranh chống tàn dư và hậu quả của văn hoá thực dân mới
rồi, bây giờ chúng ta tiếp tục làm, chứ không phải đặt lại vấn đề như mở một
chiến dịch mới. Chúng ta đã tiến hành cuộc đấu tranh xoá bỏ văn hoá thực dân mới
trong suốt mấy năm nay và đã làm được nhiều việc tốt. Giờ đây chúng ta không đặt
ra nhiệm vụ gì mới, mà chỉ đề ra mấy yêu cầu công tác.
Nghiên cứu văn hoá thực dân mới là
nhiệm vụ của nhiều cơ quan. Nghiên cứu phải toàn diện : chính trị, kinh tế, quân
sự, giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, công việc này chúng ta đã và đang làm. Tổng
hợp được các công trình nghiên cứu này, chúng ta sẽ có kết quả tốt. Chúng tôi đề
nghị các cơ quan đã nghiên cứu cần đẩy mạnh chức năng nghiên cứu của mình về chủ
nghĩa thực dân mới. Các ngành, các viện tiếp tục mở hội nghị chuyên đề nghiên cứu
sâu vào các vấn đề đã được đề ra. Ngoài ra, các đoàn thể, các tập thể nhân dân
cũng nên tổ chức những cuộc hội thảo, toạ đàm đấu tranh chống những tàn dư văn
hoá thực dân mới trong phạm vi giới mình, địa phương mình. Chúng ta phải phát động
quần chúng một cách rộng rãi để quần chúng tự đứng lên đấu tranh, đây không phải
chỉ là công việc của các nhà lý luận, phê bình. Công tác nghiên cứu lý luận, phê
bình cũng phải có phong trào của quần chúng, của các đoàn thể để nâng cao nhận
thức, tinh thần phấn đấu chung. Chuyên đề nghiên cứu có nhiều, tuỳ theo ngành mà
tổ chức. Riêng về mặt văn hoá, nghệ thuật, chúng tôi đề nghị bốn ngành : âm nhạc,
điện ảnh, sân khấu, mỹ thuật nên xúc tiến tổ chức những hội nghị chuyên đề về vấn
đề này.
Hiện nay, trong công tác nghiên cứu,
có ý kiến nêu vấn đề hợp tác. Theo tôi, ta không nên gọi là “hợp tác” mà nên gọi
là đoàn kết và thống nhất để nghiên cứu. Hiện nay Đảng và chính quyền là một,
thì đội ngũ nghiên cứu văn hoá, nghệ thuật cũng là một. Cơ sở để chúng ta thống
nhất và đoàn kết là một quan điểm, một phương pháp, một mục tiêu chung. Quan điểm
của chúng ta là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, một phương pháp khoa học
chân chính. Mục tiêu của chúng ta là xoá bỏ tàn dư văn hoá thực dân mới, đoàn kết
thống nhất cả nước để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, còn có vấn
đề quan trọng là thái độ và tình cảm đối với nhau, nhưng cái cơ bản vẫn là quan
điểm, phương pháp tư tưởng. Mà nói tới quan điểm, phương pháp thì chúng ta chỉ
chấp nhận quan điểm và phương pháp dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê-nin và đường
lối mà Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch ra.
Nói tóm lại, về thái độ, nhận định và
cách làm cụ thể đối với những công trình nghiên cứu cụ thể vì có thể có sự khác
nhau, nhưng về quan điểm, phương pháp và mục tiêu chung thì có một mà thôi. Đây
là những vấn đề có tính nguyên tắc không ai được xa rời. Chúng ta cũng cần đánh
giá những công trình, bài viết nghiên cứu đã xuất bản. Chúng có giá trị nhất định
vì đã góp phần hướng dẫn tư tưởng và nâng cao hiểu biết của nhân dân. Chúng có
giá trị trước hết ở chỗ đã góp phần vào việc chống văn hoá thực dân mới. Song
ta không thể cho rằng như vậy là đủ rồi. Các nhà nghiên cứu, lý luận, những cơ
quan nghiên cứu nên lắng nghe ý kiến phê bình, phát biểu, cố gắng chấn chỉnh lại
những nhận định chưa đầy đủ để nâng cao chất lượng những công trình thêm sâu sắc
hơn, hoàn chỉnh hơn.
Một nhiệm vụ quan trọng khác là phải
giáo dục thẩm mỹ cho nhân dân. Vấn đề giáo dục thẩm mỹ không thể bó tròn vào
việc hướng dẫn thưởng thức nghệ thuật và vào cách ăn mặc, mà còn liên quan đến
nhiều mặt trong đời sống. Trong giáo dục
thẩm mỹ, cái quan trọng nhất là đấu tranh chống
quan điểm nghệ thuật phản động trong thưởng thức. Chúng ta lên án quan niệm hưởng
thụ, tiêu dùng bị động, coi nghệ thuật là ngành kinh doanh, coi nghệ sĩ là người
buôn bán. Phải đưa cái đẹp vào đời sống của nhân dân. Các cơ quan, nhất là các
cơ quan văn hoá, nghệ thuật phải hướng dẫn cho mọi người biết yêu, biết quý cái
đẹp trong các lĩnh vực để thống nhất với nhau trong nhận định, quan điểm. Chúng
ta phải dựa vào ý kiến chung của xã hội để nói lên cái đẹp của ta mà xưa nay dân
tộc ta vẫn tự hào (giản dị, thanh lịch, trang nhã) để chống lại những hiện tượng
rắc rối, diêm dúa, lố lăng, kỳ quái. Ta có quyền tự hào về các truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và những tinh hoa của văn hoá dân tộc. Chúng ta tiếp thu truyền
thống dân tộc có sáng tạo, chứ không bắt chước một cách vụng về mà cứ tưởng là
mình sáng tạo thực. Chúng ta khuyến khích cái mới, cái sáng tạo, bởi vì cái mới,
cái sáng tạo bao giờ cũng đi liền với cái đẹp. Chúng ta khuyến khích tìm tòi,
nhưng chúng ta phải phân biệt cái sáng tạo và bắt chước. Bộ Văn hoá – Thông tin
và các nhà nghệ thuật có trách nhiệm tiến hành giáo dục thẩm mỹ trong nhân dân
trên hai lĩnh vực: chống quan điểm nghệ thuật phản động trong sáng tác, biểu
diễn, hướng dẫn nhân dân quan niệm đúng về cái đẹp, biết sử dụng cái đẹp trong đời
sống của mình.
* * *
Qua những điểm đã trình bày, chúng tôi
nghĩ rằng, chúng ta đã đi tới sự nhất trí về những điểm quan trọng nhất, cơ bản
nhất trong việc nhận định về âm mưu chính sách, đặc điểm, hậu quả và tàn dư cực
kỳ hiểm độc của văn hoá thực dân mới. Ngoài ra, chúng ta cũng đã đề ra một số
phương hướng và nhiệm vụ cho các cơ quan, các ngành hoạt động văn hoá, nghệ thuật,
đặc biệt là các cơ quan nghiên cứu, lý luận phê bình. Chúng ta đang làm nhiều
việc đó và đang triển khai các phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng mà Ban
Tuyên huấn Trung ương Đảng và Bộ Văn hoá – Thông tin hết sức quan tâm theo dõi.
Mong rằng các địa phương, các ngành đề ra yêu cầu cụ thể hơn nữa để đặt kế hoạch
hoạt động trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và tình hình cụ thể của ngành mình, địa
phương mình.
(Trích Trần Độ tác phẩm, tập II, Nxb Hội Nhà văn, 2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét