Khi ta nói lối sống, ta có thể hiểu là ta nói đến toàn
bộ các hoạt động sống của con người theo một kiểu lối nào đó. Toàn bộ hoạt động
sống của con người bao gồm trước hết là lao động, là các hoạt động sống hàng
ngày của cá nhân trong gia đình ngoài xã hội, là các hoạt động văn hóa, học
tập, giải trí, giao tiếp bạn bè.
Tất cả các hoạt động này đều gắn liền với những cơ sở
kinh tế, chính trị, tư tưởng triết lý của xã hội. Những cơ sở ấy quyết định
chiều hướng tư duy, tư tưởng tình cảm con người và quyết định chiều hướng sống
con người theo một lối sống phù hợp với các cơ sở ấy.
Nếu các cơ sở kinh tế, chính trị là kiểu tư bản chủ
nghĩa, tư tưởng triết lý của nó nhất định là cá nhân chủ nghĩa cực đoan, ích kỷ
cực đoan, càng ít lao động mà kiếm được nhiều tìn càng tốt, tiền là trên hết,
cốt sống đầy đủ hơn người. Còn ai chết đói mặc kệ. Và lối sống của mỗi người
trong xã hội cũng theo kiểu như vậy.
Nếu các cơ sở kinh tế, chính trị là kiểu xã hội chủ
nghĩa, tư tưởng triết lý là xóa bỏ bóc lột, là thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, tôn
trọng lẫn nhau, tạo mọi điều kiện cho mỗi người được phát triển tốt nhất, toàn
diện nhất. Lối sống kiểu xã hội chủ nghĩa là lối sống theo chủ nghĩa tập thể,
coi trọng lợi ích tập thể theo đạo lý “một người vì mọi người, mọi người vì một
người”.
Đó là hai lối sống hoàn toàn đối lập nhau, trái ngược
nhau, không có điểm nào dung hòa được.
Thông thường một xã hội tồn tại như thế nào, quy định
con người trong xã hội đó phải sống theo cái lối sống phù hợp với nó. Do vậy
mỗi con người lại tạo cho mình những cách suy nghĩ hành động theo lối sống như
vậy làm cho xã hội lại càng vững vàng phát triển theo hướng mà nó đang có. Vì
con người vừa là sản phẩm do xã hội nhào nặn lên, vừa là chủ thể xây dựng lên
xã hội.
Chúng ta hiện nay đang trong bước đi ban đầu của thời
kỳ quá độ để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xã hội ta chưa có đầy đủ những cơ sở
kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa vững chắc (tức là một nền công nghiệp lớn xã
hội chủ nghĩa), trong khi đó lại còn đang tồn tại nhiều cơ sở kinh tế không
phải xã hội chủ nghĩa như các cơ sở kinh tế tư nhân, các cơ sở kinh tế kiêm tư
bản chủ nghĩa. Vì vậy trong đầu óc con người cũng còn tồn tại cả kiểu tư duy và
đạo lý xã hội chủ nghĩa cũng như kiểu tư duy và đạo lý không xã hội chủ nghĩa –
chống xã hội chủ nghĩa.
Hai chữ đạo lý này đang đấu tranh với nhau kịch liệt.
Cũng như hai kiểu cơ sở kinh tế cũng đang đấu tranh với nhau quyết liệt.
Chỉ có điều trong xã hội ta có Đảng cộng sản, mạnh mẽ,
lại có chính quyền Nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo. Vì vậy các cơ sở kinh tế
cũng như đạo lý xã hội chủ nghĩa có thế mạnh, thế thống trị thế áp đảo.
Đạo lý xã hội chủ nghĩa là đạo lý tiến bộ, nhân đạo vì
hạnh phúc của tất cả mọi người. Đạo lý tư bản chủ nghĩa là đạo lý phản động chỉ
lo cho lợi ích ghê gớm của những kẻ bóc lột.
Một khi đạo lý tốt đẹp được toàn xã hội hay tuyệt đại
đa số người trong xã hội tán thành công nhận và thực hành thì cũng tạo ra được
một lối sống tốt đẹp trong xã hội.
Trong thời kỳ chiến tranh chống đế quốc của nhân dân
ta, cơ sở kinh tế của ta nghèo nàn, đời sống luôn luôn bị đảo lộn, bị tàn phá
vì chiến tranh. Nhưng nhân dân ta “muôn người như một” sống theo đạo lý của Bác
Hồ “Không có gì quý hơn độc lập tư do” nên ở những vùng giải phóng và trong
quân đội ta có một lối sống rất đẹp, rất cao mà thế giới phải khâm phục.
Tình hình đó ngược hẳn lại với tình hình trong các
vùng Mỹ ngụy kiểm soát.
Hiện nay ở nhiều nơi, nhiều lúc cũng xuất hiện những
người có lối sống không tốt, không đẹp. Điều đó chỉ biểu hiện rằng đang có một
cuộc đấu tranh về lối sống. Chứ hoàn toàn không phải là không thể có lối sống
tốt đẹp kiểu xã hội chủ nghĩa được. Muốn có
một xã hội xã hội chủ nghĩa và một lối sống xã hội chủ nghĩa tốt đẹp phải có
một cuộc đấu tranh toàn diện quyết liệt và lâu dài. Cuộc đấu tranh này diễn ra
ở tất cả mọi nơi, từ những lĩnh vực chung bao trùm tất cả, đến những lĩnh vực
cụ thể, thậm chí nhỏ nhặt hàng ngày.
Đạo lý của chủ nghĩa xã hội trong lối sống là đạo lý
“Vì hạnh phúc của nhân dân”. Đó chính là vấn đề “lẽ sống của mỗi người”, “Mục
đích cuộc sống của mỗi người” và là vấn đề cơ bản của lối sống.
Lẽ sống là vấn đề cơ bản của lối sống
Hiện nay toàn xã hội đều quan tâm đến vấn đề lối sống.
Các cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm với xã hội có mối lo lắng đối với những hiện
tượng sa sút của lối sống, nhất là trong thanh niên. Một số lớn người khác
trong đó có nhiều thanh niên, nhiều người có một hoài bão muốn sống sao cho tốt
đẹp, nhưng trong cuộc sống thực tế nhiều lúc phải có những hành vi sống mà tự
lương tâm không yên. Từ đó phát sinh mỗi nỗi hoài nghi và bối rối, lo “liệu có
thể sống tốt đẹp như mình muốn được không” hoặc “Cuộc sống kiểu này sẽ đưa đẩy
lối sống đến chỗ sa sút như thế nào ?”.
Nhưng đồng thời không ít người không quan tâm gì đến
lối sống. Họ cho là sống thế nào cũng được miễn là họ sống được … Nhưng như vậy
thực chất họ đã tự chọn cho mình một lối sống, đó là lối sống “vô trách nhiệm”.
Có lẽ phải có nhiều điều cần nói với những loại ý kiến
vừa nói trên.
Muốn thấy rõ mình sống như thế nào? sống theo một lối
sống thế nào, trước hết và cơ bản nhất là tự mình phải thấy rõ mình sống vì cái
gì ? mình sống vì mục đích gì, lẽ sống của mình là gì. Trách nhiệm của mình đối
với cuộc sống của mình thế nào?
Nói đến vấn đề này, có thể có người bĩu môi chê là cũ: “xưa như trái đất”. Đúng nó là vấn đề rất cũ vì có lẽ bắt đầu từ khi loài
người biết tư duy đã phải đặt ra để giải đáp. Và suốt hàng vạn năm và thậm chí
hàng chục vạn năm, loài người cứ lúng túng với những câu hỏi sống để làm gì ?
Sống thế nào cho đúng và sống thế nào là hạnh phúc. Đã có bao nhiêu các nhà
hiền triết nổi tiếng trong lịch sử thế giới giải đáp khác nhau như Jésus
Christ, Thích ca Mâu ni. Và tất cả các câu trả lời đều chưa giải đáp được đúng,
chưa mang lại một sự yên ổn trong tâm tư sống của con người.
Tóm tắt câu trả lời của các vị
ngày xưa là “sống gửi, thác về” – nghĩa là con người sinh ra sống thì chỉ là
thực hiện một việc rất tam bợ, gửi tạm cuộc sống trên cõi đời dương thế này
thôi, chỉ có khi chết sang thế giới bên kia lúc ấy mới là về nơi sống thật,
sống vĩnh cửu. Vì vậy khi sống thì cố tu nhân tích đức, chịu ép một bề nhẫn
nhục, nhận hết những gì là khổ ải cuộc đời vốn có để chờ đợi đến lúc “về” cõi
khác. Không khác gì người đi tạm chuyến tàu. Vì bị ảnh hưởng của loại tư tưởng
này nên có một loại người quan niệm đơn giản rằng sống chỉ là khổ, không thể và
không hề có sống hạnh phúc trên đời này.
Hồi trẻ, tôi có một người bạn gái, cô ấy hay buồn. Tôi
hỏi tại sao, cô ấy bảo “đời là bể khổ” và đó là chân lý đúng nhất. Nhưng đấy
cũng chỉ là tâm trạng của đa số nhân dân lao động. Tâm trạng ấy rất cần thiết
cho giai cấp bóc lột. Giai cấp bóc lột càng nhấn mạnh các loại triết lý ấy để
nó vững tâm bóc lột vơ vét và tạo cho nó một cuộc sống tuy là sống gửi, nhưng
rất đầy đủ sung sướng, thừa thãi. Chính bọn họ không cần lo lắng gì lắm cho đến
lúc “về”. Vì khi chết rồi chúng lại tin tưởng sắm đủ mọi thứ để “hối lộ” cho
các vị thần linh. Các vị thần linh vẫn sẵn sàng “bao che” cho chúng khỏi những
quả báo ghê gớm. Và chúng vẫn không có gì lo ngại cả.
Bây giờ các nhà triết học khoa học tư sản hiện đại lại
đua nhau dựa vào nhiều kết quả khoa học để giải đáp đưa người ta càng dấn sâu
vào nỗi chán chường bi quan hoài nghi và bế tắc. Đó là cách nói “cuộc sống là
phi lý”, tức là sống không để làm gì cả. Sống được lúc nào hay lúc đấy. Cứ sống
bừa đi, không cần quy tắc, đạo đức luật lệ. Vì “đời chẳng là cái quái gì cả”.
Bọn lính ngụy ngày xưa có những hành động “nham nhở” với phụ nữ, người ta đem
đạo lý ra nói lại thì nó cũng nham nhở trả lời “đời mà em”, đối với chúng, đời
là một sự nham nhở, không cần đạo lý, không cần lý lẽ. Mà cuộc đời người lính
ngụy lại là thứ đời nham nhở nhất trong cuộc đời nham nhở đó, cho nên có đứa
còn nói câu (mà nó cho là sâu cay hơn) : “lính mà em”. Thế là đế quốc Mỹ với
chủ nghĩa thực dân mới đã mang lại cho nhân dân những nơi chúng đặt chân đến
một tai họa ghê tởm nhất trong các tai họa là phá nát cuộc sống bằng cách phá
nát tâm hồn con người, đầu độc tâm hồn con người bằng những triết lý cực kỳ
phản động, kèm theo với các loại của cải tiêu dùng tràn ngập mà nó dụng ý để
“điều kiện hóa lối sống”. Nó làm cho lối sống bị thác loạn ngay bằng những điều
kiện tiêu dùng bừa bãi đó. Nó có nhiều lối nói, nhiều sách vở, nhiều phim ảnh
và nhiều cách tổ chức cuộc sống để có thể đánh vào nhiều loại thị hiếu khác
nhau. Nhưng điều bản chất nhất, cơ bản nhất và là mục đích sâu độc nhất là ở
chỗ nó tung ra một quan niệm sống để tạo ra cái mà nó gọi là “lối sống Mỹ” đó.
Điều cực kỳ nguy hiểm là nó đã gây nên một sự mơ hồ khá rộng rãi trong số không
ít người.
Vì nó đã điều kiện hóa lối sống đó bằng cách tạo nên
các cơ sở kinh tế theo kiểu tư bản chủ nghĩa hiện đại và tung tiền bạc ra để
tạo cho mọi người lao vào một lối sống tiêu dùng quá dễ dãi, trong điều kiện
của cuộc chiến tranh xâm lược.
Như vậy vấn đề sống để làm gì, sống thế nào ? quả thật
là một vấn đề quá cũ, “xưa như trái đất”, nhưng nó lại luôn luôn mới, luôn luôn
nóng hổi. Bất cứ ở thời đại nào, thậm chí năm nào, ngày nào nó cũng đặt ra đòi
hỏi phải được trả lời. Những người có ý thức về nó thì day dứt băn khoăn tìm câu
giải đáp. Nhưng cũng có kẻ không cần quan tâm, chẳng tìm câu giải đáp, hoặc là
bằng lòng với câu giải đáp vô trách nhiệm “đời là thế”, “đời là phi lý” và cứ
sống như một sinh vật không cần biết có tư duy.
Hiện nay cũng vẫn là lúc phải tiếp tục giải đáp cho rõ
vấn đề đặt ra như vậy. Và vấn đề cũng đang đặt ra vừa nóng bỏng vừa phức tạp.
Thực ra từ hơn 100 năm nay câu hỏi đã được giải đáp
chính xác, rõ ràng và dứt khoát. Ai đã được biết, được hiểu và tin vào sự giải
đáp đó thì tìm được một sự thanh thản tuyệt vời trong tâm hồn và sống một cuộc
sống đầy ý nghĩa tốt đẹp.
Bản thân tôi khi còn ở tuổi thanh niên, tôi đã từng
gặp một sự khủng hoảng tinh thần nghiêm trọng. Lúc ấy tôi đang đi học. Tôi có
một ông anh họ, ông ấy được học ít hơn tôi. Có một buổi ngồi chơi, tự nhiên ông
“triết lý” với tôi thế này : “Chú học hành, có nhiều chữ nghĩa, vậy tôi hỏi chú
câu này : “Con người sinh ra để làm gì ? và sống để làm gì ? – Tôi nói chú nghe
nhé. Như tôi đây này. Cả ngày tôi làm mửa mật ra, đầu tắt mặt tối, để làm gì nào
? – Để kiếm miếng ăn, ăn để làm gì ? – Để mà sống, thế sống để làm gì ? lại để
đầu tắt mặt tối kiếm thêm miếng ăn để mà sống. Rồi tôi lấy vợ, tôi đẻ con, tôi
lại phải cật lực gấp hai, gấp ba để cho con tôi lớn lên, con tôi lớn lên rồi nó
ra thế nào ? Nó lại cũng như tôi lại chạy vạy mửa mật để kiếm miếng ăn, để
sống, rồi lại để đẻ con ra, cứ như vậy. Còn
tôi, cuối cùng tôi già rồi tôi chết, tôi trở về với đất, tôi để lại ở đời những
đứa con tôi nó tiếp tục kiếp sống như tôi và cuối cùng nó cũng chết hết. Đấy
thế đấy. Rút cuộc sống là để kiếm ăn, ăn để sống, sống lại để kiếm ăn rồi chết
! Vậy tôi hỏi chú, sống để làm gì nào ?”.
Khổ thân tôi, lúc ấy tôi mới đang học : “Quả đất tròn,
quả đất xoay quanh mặt trời”. “Mưa là do hơi nước bốc lên thành mây, mây gặp
khí lạnh đọng lại thành nước rơi xuống và thế là mưa”. Tôi lại đang học nước ta
có nhiều Anh hùng cứu nước, thật vẻ vang. Chứ nào tôi đã học đến những điều oái
oăm mà anh ấy hỏi tôi đâu – Nhúm chữ nghĩa của tôi làm sao giải đáp được điều
đó ?
Nhưng cái điều tai ác là câu hỏi ấy ám ảnh tôi ghê
gớm, đảo lộn đầu óc tôi một cách gay go nhiều năm liền. Những năm sau đó tôi
học cao hơn lên, tiếp xúc nhiều hơn với cuộc sống, tôi càng thấy câu hỏi ấy
hành hạ tôi dữ dội đến mức quả chính tôi cũng không muốn sống nữa, vì tôi thấy
sống khổ quá và đúng là thấy mình không làm được gì cho mình và cho đời thật.
Cho đến lúc tôi được tiếp xúc với chủ nghĩa Mác –
Lê-nin và giác ngộ chủ nghĩa Cộng sản. Tôi mới thấy chủ nghĩa Mác giải thích
cuộc đời tài tình, chí lý, chính xác một cách lạ lùng. Tôi mới thấy rõ cuộc đời
có sự kết cấu của nó, có quy luật tồn tại và phát triển và con người ta sống có
vai trò lớn đối với quy luật phát triển của cuộc sống, của xã hội. Cố nhiên lúc
đầu cũng tự thấy mình “vĩ đại” quá lên một mức. Nhưng dù sao điều đó cũng mang
lại cho tôi một hạnh phúc tuyệt vời.
Mác đã giải thích rõ con người ta đã xuất hiện trong
lịch sử như thế nào ? Vai trò con người có thể chinh phục và dựa vào thiên
nhiên để sống thế nào ? Con người ta đã quan hệ với nhau trong xã hội thế nào
theo những quy luật vận động thế nào ? Những quy luật ấy đã đưa xã hội loài
người tiến lên từ chế độ nọ sang chế độ kia như thế nào ? Những quy luật ấy
đang vận động trong nội bộ xã hội tư bản và nhất định sẽ phá vỡ chế độ tư bản,
đưa xã hội tiến lên một bước tốt đẹp hơn. Con người ta khi đã nhận thức đúng
những quy luật ấy, chủ động thúc đẩy những quy luật ấy vận động nhanh hơn sẽ có
thể tạo nên một xã hội ở đó xóa bỏ được hết những xung đột, ganh tỵ, những khổ
ải, những tàn ác để sống một cuộc sống thân ái, đầy đủ, hạnh phúc.
Như vậy câu trả lời đã hiển nhiên : “Con người ta sống
ở trên đời để làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn”.
Nhưng đó chỉ là một cách nói đại giản lược để nêu bật
lẽ sống của con người. Nếu con người đã hiểu được lẽ sống chân chính như vậy,
con người có thể sống với một lẽ sống hết sức tốt đẹp cao cả và điều đó nâng
cao cuộc sống con người. Chính lẽ sống tốt đẹp ấy nó hướng dần cho con người
một lối sống tốt đẹp, một lối sống cao thượng, loại trừ mọi hành vi sống ty tiện,
nhỏ nhen, thấp hèn.
Nhưng cuộc sống gồm cả một rừng lớn các mối quan hệ,
các hành vi sống xen kẽ nhau, phối hợp nhau, bài trừ nhau. Cho nên có một lẽ
sống đúng, đẹp chỉ mới là có cái cơ bản, cái phương hướng lớn của lối sống, chứ
chưa thể giải quyết mọi chi tiết trong cuộc sống được, chưa xóa bỏ hết mọi bối
rối, mọi buồn bực trong tất cả mọi hành vi sống hàng ngày được. Tuy nhiên nó là
vấn đề Trước hết, vấn đề Gốc. Muốn có một lối sống đúng và đẹp thì phải hiểu rõ
và có một niềm tin vững chắc, tuyệt đối vào lẽ sống của mình. Nói một cách khác
là phải sống có lý tưởng. Có nhiều người gặp nhiều bối rối, mâu thuẫn và khó
khăn trong cuộc sống hàng ngày nhiều khi không biết giải quyết thế nào cho
đúng. Từ tình trạng đó người ta bỗng quên đi điều cơ bản nhất là lý tưởng cuộc
sống.
Cũng có nhiều người không thấy lý tưởng cuộc sống là
cái căn cốt của cuộc sống, lao theo những ý tưởng tầm thường thấp kém, rơi vào
một triết lý phản động mà thực dân mới trước đây đã gieo rắc: “Sống đếch cần
lý tưởng, chỉ cần đớp hít”. Phải thấy điều đó đã làm cho con người rơi xuống
địa vị của một sinh vật hạ đẳng, con người đã rời xa địa vị vẻ vang đáng tự hào
của mình : Con Người. Những kẻ đáng khinh bỉ nay lại còn giở trò chế giễu những
người nói đến lý tưởng một cách nghiêm túc, gọi họ là “hâm” là “bôn sệt” và tự
cho mình là “thực tế”, “hiểu cuộc sống”. Cũng có người trong hành vi sống hàng
ngày, làm những điều không tốt đẹp, nhưng vẫn ngộ nhận là nhân danh lý tưởng
cuộc sống lý tưởng cách mạng, đường lối của Đảng, chứng minh sự trung thành
“tuyệt vời” của mình bằng số năm tháng theo cách mạng hoặc tuổi đời để mưu mô
những sự việc tồi tệ, lo cho danh vị và quyền lợi cá nhân, hãm hại người khác,
những người mà họ không ưa hoặc có nguy cơ tổn thương đến danh dự và quyền lợi
của họ. Chính những kẻ này là những cái cớ bỉ ổi cho những loại người “đếch cần
lý tưởng” có cớ để chế giễu lý tưởng và xuyên tạc lý tưởng.
Nhưng thôi, đấy là những sự phức tạp sinh động của
cuộc sống phong phú. Ta muốn cùng nhau bàn ở đây là bàn đến lý tưởng chân chính
của cuộc sống, đến lẽ sống thật sự của con người.
Lý tưởng cuộc sống và lý tưởng lao động
Trong tất cả các hành vi sống của con người thì hành
vi sống quan trọng nhất, cơ bản nhất và có bản chất người nhất là lao động. Con
người nhờ có lao động sản xuất ra của cải vật chất mà sống. Con người cũng nhờ
có lao động mà ngày càng được nâng cao về cả thể lực và trí tuệ, tâm hồn, ngày
càng “người” hơn và ngày càng hoàn thiện hơn. Trước Mác thì trong cuộc sống người
ta coi lao động là khổ sai, là nô lệ, vì thực sự nó như vậy và ai nấy đều coi
khinh lao động. Con người sống như loài vật và khi làm cái việc có tính người
nhất là lao động thì lại cũng làm như loài vật và bị coi như loài vật. Trong
những xã hội đó, người ta quan niệm ai không lao động mà giàu sang được là vẻ
vang, là đáng tự hào và người đua nhau khoe với nhau cái vẻ vang không lao
động, cứ tự hào giàu sang vì biết bóc lột, biết lừa bịp, biết ăn cắp của người
khác. Thế là xã hội có hai lối sống. Một lối sống của kẻ bóc lột, không lao
động mà giàu sang phè phỡn và một lối sống gần như loài vật của những người bị
bóc lột cùng cực – Trong khi đó có một loại người ở giữa thì hướng về lối sống
của kẻ giàu sang, học đòi các mánh lới thủ đoạn, giày xéo lên chút lương tri
của mình để học đòi ngoi lên theo cách đó.
Ngày nay chúng ta đã và đang xóa bỏ tình trạng đó.
Chúng ta đang xây dựng và củng cố một chế độ xóa bỏ triệt để mọi hình thức bóc
lột, mọi giai cấp bóc lột. Một xã hội coi lao động vừa là nghĩa vụ vừa là vinh
quang, ai lao động mới có sống, có vị trí trong xã hội. Ai không lao động bị
lên án, bị hình phạt. Ta đã thực hiện được một bước quan trọng làm cho xã hội
tốt đẹp hơn, trong sạch hơn.
Nhưng chúng ta lại đứng trước một tình hình mới đẻ ra
nhiều vấn đề phức tạp mâu thuẫn gây nên nhiều sự bối rối cho các thành niên mới
bước vào đời và cả các bậc cha mẹ. Tình hình đó là : muốn xây dựng một xã hội
công nghiệp lớn, ta phải có càng ngày càng nhiều loại lao động – hay nói cách
khác càng ngày càng nhiều nghề.
Nhiều người đã biết câu châm ngôn rất cao thượng
“không có nghề thấp hèn, chỉ có con người thấp hèn”. Đứng về lý thuyết, trong
xã hội đã yêu cầu có nghề gì thì nghề đó đều là cần thiết cho cuộc sống trong
xã hội, nghĩa là đều có ích, đều vẻ vang cả. Chỉ có người nào làm nghề nào đó
mà gian dối, lừa bịp thì người đó mới là thấp hèn và làm xấu cái nghề ấy đi mà
thôi.
Xã hội ta đang có hai khó khăn lớn ảnh hưởng đến những
suy nghĩ về lý tưởng cuộc sống và lý tưởng lao động (việc chọn ngành chọn nghề)
của thanh niên.
a) Ta có một nguồn sức lao động dồi dào, nền kinh tế
của ta chưa phát triển, chưa đủ việc làm cho tất cả mọi người, phần lớn thanh
niên đến tuổi vào đời chưa có việc làm – nhất là thanh niên đô thị.
b) Nền giáo dục của ta phát triển
mạnh và rộng rãi nhưng chất lượng còn nhiều khuyết điểm. Các thanh niên trải
qua sự giáo dục (kể cả phổ thông và Đại học, chuyên nghiệp) khi ra đời chưa
được trang bị đầy đủ về tư tưởng và bản lĩnh, kỹ năng lao động, chưa sẵn sàng
lao động tốt đối với nghề mình học.
Hai tình hình trên đẻ ra muôn vàn khó khăn khác trong
đó có việc là nó tác động không nhỏ vào một bộ phận quan trọng tâm lý xã hội,
thiếu niên không hăng hái chăm chỉ học tập vì không biết học xong ra làm gì ?
Vai trò xã hội của thày giáo bị giảm sút. Nhiều người không căn cứ vào sự phát
triển mới của xã hội và những tình hình, vấn đề mới phát sinh của nó. Mà cứ so
sánh một cách vô căn cứ, rồi thấy cái gì cũng “kém ngày xưa”, làm như ngày xưa
cái gì cũng tuyệt vời và xã hội ta hình như càng ngày càng sa sút. Việc chọn
nghề đặt ra một vấn đề lớn hơn : lý tưởng lao động. Trong tình hình hiện nay và
sau này vấn đề lý tưởng sống không còn là vấn đề phải tranh cãi, cân nhắc. Xã
hội ta hiện nay đã giải quyết vấn đề đó một cách dứt khoát rõ ràng và hết sức
sáng sủa. Mỗi người sống trong lúc này chỉ có thể có một lẽ sống : sống làm cho
xã hội tốt đẹp hơn, sống vì mọi người, sống có ích cho xã hội. Còn bất cứ những
kẻ nào khác, lúc nào đó nói bậy nói bạ những cái gọi là “lẽ sống” khác thì chỉ
đều là bọn “bá láp” không ai thừa nhận mà tự bản thân những kẻ ra những “tuyên
ngôn” như “chỉ cần sống vì mình” – “sống thì tiền là trên hết” cũng tự thấy hổ
thẹn trong lương tâm và cũng tự thấy mình nói bừa nói láo. Hoặc có một vài kẻ
nào đang đắc ý và có một số “thành công” nào đó với những lẽ sống đó thì cũng
chỉ là tạm bợ, chỉ là những rác rưởi và bèo bọt của cuộc sống, sớm muộn cũng bị
quét sạch đi mà thôi.
Phải sống có ích cho xã hội. Được rồi. Nhưng sống bằng
nghề gì, lao động gì để có thể sống được. Phải sống được đã rồi mới làm việc có
ích cho xã hội được chứ. Thế mà tình hình nghề nghiệp trong xã hội ta hiện nay
lại có những nét không ổn định và phức tạp như thế này :
- Có vấn đề lao động trí óc và lao động chân tay ;
- Có vấn đề có nghề có nhiều thu nhập, có nghề rất ít
thu nhập ;
- Có nghề phù hợp sở thích, phù hợp điều kiện gia đình
hoặc có nghề lại đẻ ra mâu thuẫn giữa hai điều kiện đó ;
- Học nghề nào, thích nghề ấy, nhưng khi phân công
công tác lại phải nhận một nghề khác – do tổ chức sắp xếp hoặc do sức ép của
gia đình, của người yêu, của điều kiện sống, v.v…
Cũng do tình hình phức tạp như vậy cho nên có một sự
đảo lộn các giá trị lao động, gây nên những sự ngộ nhận, đánh giá sai các giá
trị lao động. Thực ra lao động chân tay và lao động trí óc đều có giá trị như
nhau. Nhưng nay trong xã hội lưu truyền một số ý kiến đánh giá sai giá trị của
lao động trí óc, coi thường đặc điểm lao động trí óc. Ví dụ có người phàn nàn
hiện nay trong các chất thì chất xám là rẻ nhất, xuất hiện các câu tục ngữ, các
chuyện tiếu lâm đều xếp giá trị lao động trí óc xuống thấp. Ví dụ họ nói : các
thứ phó thì phó tiến sĩ là thấp nhất, phó mộc cao nhất. Hoặc có phó tiến sĩ đi
hỏi vợ phải nói dối là lái xe thì mới được nhận lời. Hoặc có câu là “Muốn ăn
thì lấy thợ điện, muốn diện thì lấy thợ may, muốn ăn mày thì lấy trí thức”.
Thực ra đây hoàn toàn không phải là những ý kiến “đề
cao lao động chân tay”, hạ uy thế lao động trí óc để đảo ngược cách quan niệm
giá trị của các xã hội cũ. Mà những ý kiến kể trên kia chỉ biểu hiện một sự
nhận thức thực dụng, chọn nghề gì dễ kiếm tiền. Thực chất nó là một khía cạnh
của nhân sinh quan phản động, coi tiền là cao nhất, lợi ích vật chất là cao
nhất.
Cũng có thể thấy một khía cạnh
phụ là sự phản ứng chua chát của những ý kiến bênh vực giá trị lao động trí óc.
Lao động chân tay và lao động trí óc đều là lao động. Người nào cũng là người
lao động. Trong lịch sử có lúc lao động trí óc được đề cao như một loại nghề
cao cấp, quý phái. Ngày nay ta gạt bỏ quan niệm đó. Nhưng không thể vì thế ta
lại hạ uy thế lao động trí óc như một loại lao động cấp thấp được. Cũng còn
không ít người coi lao động trí óc là thứ lao động dễ dàng (phất phơ, không sản
xuất được ra sản phẩm vật chất), những người trí thức là những người “ngồi mát
ăn bát vàng”. Quả thực tính chất và giá trị của lao động trí óc còn cần được
nhận thức cho đầy đủ. Mọi người chỉ thấy các trí thức không phải lao động vất
vả bằng chân tay và có nhiều khi sản xuất ra những sản phẩm trí óc một cách
nhanh chóng và dễ dàng. Có một giai thoại ở thế giới : có một nhạc sĩ nhận một
đề tài sáng tác một ca khúc, anh chỉ làm trong hai giờ xong một tác phẩm” –
Nhạc sĩ trả lời : “Không phải thế đâu, phải tính hai giờ cộng với cả cuộc đời
của mình mới đúng”.
Thật vậy, mỗi một trí thức hoặc nhà khoa học hoặc nghệ
sĩ sáng tác, hoặc thày dạy học, mỗi khi cống hiến cho đời một sản phẩm, một tác
phẩm dù ngắn hay dài đều phải có một sự cố gắng căng thẳng phi thường, huy động
đến mức cao nhất tất cả những gì thuộc về trí tuệ tình cảm của cả một cuộc đời.
Đó là chưa kể tùy từng nghề, người trí thức còn phải làm nhiều việc vất vả như
sưu tầm tài liệu, đi thực tế trong cuộc sống, đi thư viện hoặc tìm tòi sách vở
ở đủ nơi, đọc, ghi chép, sắp xếp tra cứu, hoặc những nhà điêu khắc nhiều khi
phải làm việc như người thợ mộc, thợ nề hay thợ gò, v.v…
Cần xóa bỏ ấn tượng cũ kỹ rớt lại từ ngàn xưa là trí
thức là công việc giấy tờ nhàn hạ, “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm” là một
nghề dễ dàng. Phải coi công việc lao động trí óc là một thứ lao động, một thứ
lao động hết sức cần thiết và nhiều hiệu quả thúc đẩy xã hội tiến lên, làm xã
hội tốt lên, xã hội đẹp lên, đem lợi ích tinh thần hạnh phúc và niềm vui cho
mọi người.
Không nên chỉ liệt nó vào một loại nghề khó khăn, khó
kiếm ăn. Thực ra các nghề trí thức vẫn có vị trí vẻ vang của nó. Bây giờ cũng
vậy, không ai hạ thấp nó được. Một số ý kiến nêu lên ở trên thực chất chỉ là ở
những người kém học và bị ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng phản động mà thôi.
Nếu hành vi chủ yếu của cuộc sống là lao động, thì lý
tưởng cuộc sống phải được thể hiện ở lý tưởng lao động. Lao động trong một nghề
có một mặt thiết thực là phải có một nguồn thu nhập để sống. Nhưng không phải
chỉ như vậy. Ai đã có lý tưởng cuộc sống tốt đẹp thì cũng phải có lý tưởng lao
động tốt đẹp có ý thức rằng mình lao động trong nghề ấy nhằm tới cái gì cho xã
hội và cho bản thân mình. Vì lao động làm cho xã hội tốt đẹp, đồng thời lao
động còn làm cho bản thân người lao động tốt đẹp lên.
Tôi có biết một em, em tốt nghiệp Đại học, nhưng em
chỉ mong sao có được một việc nhàn hạ ở thành phố và có nhiều nguồn thu nhập.
Vì nếu em theo sự phân công của nghề nghiệp Đại học mà em học thì tất cả mong
muốn của em đều không đạt và em viện một lý do rất thiết thực, rất sắc bén là
em làm nghề đó, lương sẽ không đủ bảo đảm em sống. Thế là em cố xin vào làm một
công tác dịch vụ rất tạm thời, không cần nghiệp vụ. Và em đạt được đủ mọi yêu
cầu của em, em sắp có một cuộc sống phong lưu. Nhưng sau hơn một năm em nói với
tôi một điều tâm sự sau đây :
“Em cảm thấy không thích thú công việc của em, em muốn
tìm một công việc khác có thể phát huy được vốn kiến thức Đại học của em. Em
làm việc hiện nay quả là em có thu được một số lợi ích. Nhưng em nghĩ về lâu về
dài, rồi em sẽ thành một người thế nào, em sẽ tham gia giúp ích xã hội bằng cái
gì và bản thân em sẽ tiến đến đâu. Em muốn có một công việc tạo cho em một nghề
nghiệp có trình độ ngày càng cao để giúp ích xã hội tốt hơn và em có một vị trí
xứng đáng trong xã hội, kiến thức thu được ở trường Đại học của em phát huy
được tốt hơn”.
Tôi nghe em tâm sự, tôi hết sức vui mừng, tôi thấy em
đã nhận ra được điều chủ yếu của lý tưởng sống và lý tưởng lao động. Và em đã
có ý thức về một lối sống tốt đẹp. Tuy em chỉ mới có ý thức đầu tiên, chưa biết
em sẽ giải quyết cuộc sống cho em thế nào ? Nhưng điều tâm sự ấy giúp tôi kết
luận cái ý về lý tưởng lao động một cách cụ thể.
Trong tình hình hiện nay những suy nghĩ đúng đắn về
phương hướng này không ít và ngày càng phát triển. Đó là điều hết sức đáng
mừng. Nhưng tôi xin tiếp tục bàn đến nó trong phần sau.
Sống cho mình và sống cho mọi người
Có một anh bạn tôi nói chuyện với tôi về một đứa con.
Trong lúc anh trao đổi với nó về đạo lý “một người vì mọi người, mọi người vì
một người”. Cháu đó nói lại rằng : “Hiện nay con sống cho một mình con còn chưa
xong, còn lấy gì mà sống cho mọi người”. Câu nói này gợi cho tôi nhiều suy
nghĩ. Đó có thể là một câu nói biểu hiện một ý kiến tiêu cực “chỉ cần biết
mình, không cần biết đến người khác”, hay là một câu nói đầy ý nghĩa tích cực :
“Tôi phải tự rèn luyện nâng cao tôi lên cho tôi có một nhân cách độc lập, một
bản lĩnh sống vững vàng để tôi sống có ích hơn trong xã hội”.
Tôi thiên về ý nghĩ cho là ý thức của cháu có tính
tích cực. Cháu muốn cháu phải có đầy đủ ý thức làm chủ bản thân cháu, cháu có
một lý tưởng lao động thích hợp và vững vàng nghĩa là cháu phải có một nghề
chắc chắn trong xã hội đã. Lúc cháu phát biểu với bố cháu như trên, chẳng qua
là cháu nhấn mạnh cái yêu cầu nỗ lực của bản thân để cháu vào đời, chứ không
phải cháu bác bỏ đạo lý mình vì mọi người. Vì trong cuộc sống hàng ngày cháu
vẫn nhận sự giúp đỡ của bạn bè, vẫn hào hiệp giúp đỡ bạn bè và làm những nhiệm
vụ của một người con trong gia đình đối với cha mẹ và các em rất chu đáo kia
mà.
Quả thực trong cuộc sống hiện nay
mỗi người làm thế nào sống cho mình và sống cho mọi người đều tích cực, hài hòa
là một điều rất khó. Tôi đã nhận được khá nhiều câu hỏi xung quanh đề tài này,
hoặc bằng thư, hoặc bằng trả lời trực tiếp. Mà bản thân tôi cũng chưa biết giải
đáp thế nào cho thỏa đáng.
Có trường hợp thanh niên công tác khoa học có ý thức
muốn vào Đảng. Nhưng anh muốn vào Đảng bằng một nhân cách khoa học của anh, anh
tập trung tâm trí và thời gian để tự nâng cao trình độ khoa học, để cố tạo ra
một thành tựu khoa học. Và anh quan niệm đó là làm việc cho Đảng và anh sống
cho đời, cho mọi người. Vì vậy đối với một số người (kể cả cán bộ lãnh đạo) anh
có một thái độ bình đẳng và bình thường, đối với một số đảng viên anh không gần
gụi được. Một số đảng viên có trách nhiệm giúp đỡ anh thì lại chỉ thường giúp
đỡ về ý thức phấn đấu lao động (mà chủ yếu là lao động chân tay) và thái độ
chan hòa với mọi người. Ít hoặc không có ai giúp đỡ anh nâng cao về ý thức
Đảng, tính chất Đảng mà có ý kiến rõ rệt hoặc sâu sắc bằng các tài liệu anh đã
đọc. Hơn nữa lại còn có người nhận xét thiên lệch đối với anh như “chuyên môn
thuần túy – chạy đua để lấy học vị, lên lương” – nghĩa là chỉ thấy anh sống cho
mình anh một cách ích kỷ.
Như vậy anh rơi vào một bối rối. Muốn vào được Đảng
phải nghe theo và làm theo những lời khuyên mà anh cho là tầm thường. Còn anh
muốn vào Đảng với nhân cách khoa học và bản lĩnh khoa học của anh thì gặp khó
khăn.
Trường hợp trên không phải chỉ có một. Có một trường
hợp anh bạn khoa học nhận được một lời khuyên là “lùi một bước tiến hai bước”.
Nghĩa là anh ấy phải chiều theo ý kiến những người chung quanh một thời gian để
vào Đảng đã. Khi anh đã là đảng viên anh sẽ tích cực phát huy tác dụng của anh
với tư cách là đảng viên, như vậy hiệu quả hơn. Và quả thật tình hình đã xảy ra
đúng như thế. Vậy là hiệu quả. Riêng tôi, tôi thừa nhận đúng. Sự việc đó diễn
ra là có hiệu quả. Nhưng tôi lại thấy một khía cạnh khác là phải chăng lời
khuyên ấy cũng phảng phất một tý tinh thần cơ hội chăng ?
Hay là chính trong trường hợp này, người trong cuộc
biết nén cá tính của mình lại chiều theo một chút ý kiến những người chung
quanh, tạo nên một sự hòa hợp, một tinh thần thông cảm đoàn kết và như vậy lợi
ích cho công việc cho sự nghiệp chung là sự cần thiết hợp lý và đúng đắn chăng
?
Có lẽ cuộc đời là biện chứng – Có thể trường hợp này
thì đúng mà trường hợp khác lại là mầm mống của cơ hội ! ?
Lại còn những trường hợp khác :
- Có trường hợp, cán bộ thấy cấp trên (cấp trên đây có
thể là cấp trưởng phó phòng của Vụ, Cục, Giám đốc, thậm chí cao hơn nữa) có
những hành động hoặc chủ trương sai trái, trong bụng cán bộ thấy bất bình hậm
hực muốn phản đối, nhưng tự thâm tâm lại thấy phản đối cũng không được mà có
khi còn bị “đập vỡ niêu” ảnh hưởng ngay đến cuộc sống hàng ngày của bản thân,
của gia đình. Thế rồi đành phải im và có khi cũng đành phải lên tiếng ca ngợi
là sáng suốt, là cao kiến, là có lòng chăm lo đến cơ quan, v.v… mà trong bụng
thì tự xỉ vả mình là thằng hèn.
Phán xử lương tâm ra sao ? phán xử hành vi ra sao ?
Quả là ta đang đứng trước cuộc sống quá linh hoạt, quá sinh động phong phú !
Có một cán bộ làm một việc X. Đồng chí đó tự nhận xét
là “tôi làm việc đó tôi thấy nhục quá, nhưng tôi không nỡ để con tôi ốm mà
không có thuốc nên tôi phải dẹp lương tâm lại mà làm”. Cái sự việc đó không có
gì to tát đâu, chỉ là xoay xở cho con ốm có ít tiền mua thuốc, mua sữa thôi.
Một cán bộ cao cấp biết chuyện và cũng nói rằng : “Bảo
là cậu đúng thì không được, nhưng bảo cậu sai thì không nỡ” – Vậy là nó sai
đấy. Nhưng cho phép làm được. Và đó cũng chỉ là sự được phép tạm thời. Việc căn
bản là Nhà nước cũng như từng tổ chức xã hội, từng người phải nỗ lực xóa bỏ các
yếu tố buộc con người cứ phải làm những việc trái lương tâm.
Lại là cuộc sống biện chứng muôn màu muôn vẻ.
- Có người khác, thuộc loại cán bộ có học, có trách
nhiệm, có suy nghĩ, có ý kiến mới mẻ. Nhưng ý kiến mới mẻ có thể đảo lộn cả
chiều hướng suy nghĩ của cấp trên. Đồng chí này không phát biểu ra thì cảm thấy
bực bội khổ sở, không yên tâm, cảm thấy không có trách nhiệm với sự nghiệp.
Nhưng phát biểu ra thì những ý kiến ấy lại trở thành những ý kiến quái đản, mọi
người kinh ngạc, chế giễu, bài bác và có khi quy nạp cho những tội tày trời.
Cho nên lại sợ, không dám phát biểu. Cũng có lúc muốn làm Galilée – Nhưng ý
kiến thì chưa đúng bằng cái bụi của ý kiến Galilée. Mà có phải năm nào cũng có
thể xuất hiện một Galilée. Không phát biểu, giữ yên được cho cuộc sống của mình
và sống được cho mình, nhưng lại là không sống cho người khác được.
Cũng có người có can đảm quên mình để vì sự nghiệp.
Cách mạng nghĩa là không thiết đến danh vọng, quyền lợi. Nhưng người đó quên
mình, nhưng người khác có quên người đó đâu ? họ lại vẫn nhớ người đó như một
con quỷ tai hại của cuộc đời hoặc như con người tốt đẹp của cuộc sống.
Đời ta mới có câu mà nhiều người đã biết :
Thật thà, thẳng thắn, thường thiệt thòi,
Lỗi lầm luồn lọt lại lên lương.
Sống cho mình và sống cho mọi người, đâu phải đơn
giản, ý kiến của cháu thanh niên, tôi nhắc đến ở đầu đoạn này đâu phải là một ý
kiến ngây thơ dại dột.
Muốn sống tốt đẹp phải có đức và có tài.
Đức đây là nói những đức tính xã hội chủ nghĩa, trung
thành với chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, tôn trọng tập thể, năng động sáng tạo
và biết chịu trách nhiệm.
Nhưng nội dung mỗi điểm này cũng có sự hiểu khác nhau.
Trung thành với chủ nghĩa xã hội cũng có thể hiểu là chỉ biết khư khư với những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Cũng có thể hiểu là phải làm mọi việc
táo bạo để nhiều hiệu quả kinh tế, để làm cho đất nước giàu mạnh. Từ đó mang
lại no đủ và hạnh phúc cho nhân dân và như vậy là trung thành với chủ nghĩa xã
hội một cách rất thiết thực. Thực ra hai cách hiểu không đối lập, nhưng cứ có
người đem đối lập lại.
Tôi rất thích một ý kiến của Nguyễn Mạnh Tuấn viết
trong “Đứng trước biển” phê phán một loại người. Loại người đó không thích và
không dám đóng vai có tài mà chỉ thích đóng vai có đức. Đóng vai có tài nó khó,
phải hành động, phải làm cho công việc có hiệu quả, phải có gan chịu trách
nhiệm. Còn đóng vai có đức thì dễ hơn, luôn luôn giữ mình không dính gì đến các
chủ trương công việc phức tạp, sống kham khổ, yên lặng và luôn luôn có thể tự
hào tuyên bố : “Tôi không tham ô, không hủ hóa, một đời theo Đảng”, v.v… thế là
tuyệt vời, trong sạch rồi. Nhưng có biết đâu dám chịu trách nhiệm, dám năng
động tìm ra những phương án nhiều hiệu quả mới chính là cái đức cần thiết để
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Không tham ô, không hủ hóa, v.v… cũng là những đức
tính đẹp, nhưng đó chỉ là cái đẹp để giữ mình cho trong sạch để sống cho mình
thôi. Như vậy đã đủ yêu cầu của đạo đức xã hội chủ nghĩa chưa ? đã sống tốt cho
mình và có ích cho mọi người chưa ?
Tôi có một người bạn mà tôi hết sức cảm phục về tài
năng đức độ, nhưng có lần tôi lại được nghe các con của người đó phàn nàn với
tôi : “Bố mẹ cháu chỉ ngày đêm lo chúng cháu sơ xuất điều gì “hại đến danh dự
gia đình”. Hình như bố mẹ cháu chỉ thấy có danh dự gia đình là điều thiêng
liêng nhất, cao quý nhất, bất khả xâm phạm. Còn như chúng cháu đều đã lớn, đã
là trí thức xã hội chủ nghĩa, chúng cháu ý thức được đầy đủ trách nhiệm đối với
cuộc sống của chúng cháu và trách nhiệm lao động của chúng cháu đối với xã hội.
Chúng cháu có những nguyện vọng, hoài bão của chúng cháu, nhưng chưa bao giờ bố
mẹ chúng cháu quan tâm tới điều đó của chúng cháu, chứ đừng nói đến khuyến
khích và ủng hộ nữa”.
Điều phàn nàn này lại làm cho tôi phải nghĩ rất nhiều.
Không thể nào chê trách các bậc bố mẹ lo cho danh dự gia đình. Nhưng cũng không
thể nào hoàn toàn tán thành những bậc bố mẹ chỉ vì danh dự gia đình mà không
quan tâm tới nguyện vọng hoài bão của các con, không tôn trọng ý thức tự trách
nhiệm của các con.
Tôi thường va chạm với một loại người quá nặng sống vì
mình một cách không tự giác. Những người này thường bị biến đổi nhân cách ngược
chiều với sự “tiến bộ” (thăng quan tiến chức). Tôi đã thấy những người khi làm
phó thì khiêm tốn nhũn nhặn dễ thương, nhưng khi làm trưởng thì trở nên lộng
hành hách dịch. Mọi cử chỉ sống hàng ngày như chào hỏi, nói chuyện, nhìn người
tiếp chuyện, gặp người xin gặp đều thay đổi một cách kỳ lạ và xin nói là thay
đổi “đi xuống”.
Ngược lại có những người khi chưa đạt được một địa vị
khá khá thì thường tỏ ra năng động sáng tạo trung thực thẳng thắn một cách hùng
hồn, cường điệu để biểu diễn tinh thần bảo vệ chân lý một cách xuất sắc, có
quan hệ tốt với những ai mà anh ta cho là cũng “mới mẻ” như anh ta. Nhưng khi
anh ta đạt tới một địa vị cao hơn thì bỗng nhiên anh ta lại trở nên một con
người “đầy tổ chức tính” nghĩa là nghe theo tất cả mọi ý kiến cấp trên một cách
tuyệt đối và luôn trích dẫn, đề cao cũng một cách cường điệu lạ lùng. Và anh ta
tự an ủi cũng như giải thích với mọi người : “Phải thế mới làm việc được” –
“Phải lấy mục đích cao nhất là cho nó được việc đã”. Nhưng có những ý kiến nhận
xét của người đời độc miệng hơn và có lẽ cũng thực chất hơn là : Đối với anh ta
bây giờ “chân ghế” quan trọng hơn “chân lý”. Khi chưa có “chân ghế” trước đây
anh ấy say sưa chân lý. Nhưng nay “chân ghế” quan trọng hơn.
Rút cục anh ta cũng chỉ mới sống cho mình, mà sống cho
mình như vậy đã đúng chưa ? đã trong trẻo được như điều băn khoăn mà một cháu
trẻ tuổi nói với bố như tôi nhắc ở trên không ?
Đến đây ta lại đụng phải một vấn đề khác rất cao siêu
mà cũng rất phàm tục. Quyền lực và quyền lợi. Tôi đã được nghe có người bày tỏ
với tôi những ý đồ táo bạo, những phương án công tác đầy căn cứ khoa học và có
những khám phá khoa học mới mẻ, sắc xảo. Nhưng anh ta phàn nàn : với tất cả vốn
liếng của tôi như vậy mà tôi không có quyền lực trong tay thì tôi chịu chết,
làm sao được. Muốn cống hiến được cho xã hội tôi phải có quyền lực, tôi phải có
quyền quyết định điều này, điều khác, ý đồ của tôi mới thành hiện thực. Nếu
không thì :
- Về một số lĩnh vực, có những tay dốt nát hoặc không
có gan, cứ để lùng nhùng hoặc ngày càng sa sút ;
- Những “chất xám” của tôi quý giá như vậy, không đem
ra thực hiện rồi nó thui chột đi, tôi chết đi, tôi mang xuống tuyền đài là hết
– Xã hội lãng phí mất một thứ của cải không có tiền nào mua được.
Nhiệt tình trình bày của anh làm cho cả người tôi bốc
lửa. Nhưng khi tôi nguội lại tôi lại lật vấn đề xem xét và tôi nảy ra một mối
hoài nghi : Anh cần quyền lực hay cần quyền lợi. Vì quyền lực là chức vụ. Anh
bảo anh cần quyền lực để làm việc cho xã hội. Nhưng cũng có lúc anh nói anh
thiếu quyền lực là thiếu điều kiện làm việc, thiếu xe cộ để đi lại, thiếu diện
tích nhà để anh suy nghĩ nghiên cứu, thiếu thực phẩm để anh bảo đảm sức khỏe
lao động – và vì vậy ý đồ, lý luận của anh không phát triển được ?
Cũng cần phải thừa nhận có một sự thật là có những
người có ý đồ hay mà không có quyền lực thì không thực hiện được. Nhưng những
người đòi quyền lực, mong quyền lực và mê quyền lực thì nhiều khi chỉ là cái cớ
để mà có quyền lợi. Vì thật có người có quyền lực trong tay mà nhiều khi không
dùng quyền lực đó làm lợi được gì cho sự nghiệp đâu !
Còn có khía cạnh nữa là quyền lực và quyền thế. Có
người có quyền lực nhưng thực chất lại bất lực, khi đã bất lực lại phải dựa vào
quyền thế, không bao giờ dám tự chịu trách nhiệm về những quyết định của mình.
Có ý kiến gì hoặc có quyết định gì thường phải viện “thế” người nọ, thế người
kia ra để làm sức ép buộc người khác nghe theo.
Cái đó dính đến một điều khác là quyền lực thật và
quyền lực giả. Quyền lực giả chỉ có thể dựa vào chức vụ và vào những quyền thế
khác. Quyền lực thật phải hoàn toàn dựa vào trình độ tài năng, kiến thức khả
năng xét đoán và quyết định vấn đề, dựa vào nhân cách cao cả, biết quan hệ với
mọi người với tinh thần bình đẳng và tôn trọng tài năng người khác thật sự, do
đó có một sức thuyết phục lớn. Điều đó mới quả thật là quyền lực. Trước đây Bác
Hồ còn sống toàn dân đều nghe theo Bác không phải chỉ vì Bác là Chủ tịch Đảng
và Chủ tịch nước mà trước hết là vì Bác là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, một
nhân cách vĩ đại, một tài năng tuyệt vời. Người ta không những nghe theo Bác,
tin tưởng ở Bác mà còn vì người ta yêu Bác sâu sắc. Cho nên còn có thứ quyền
lực của những người yêu nhau. Yêu nhau thì tin nhau và nghe nhau. Còn có quyền
lực gì lớn hơn quyền lực của một cô gái đẹp, tốt đối với người yêu, cho dù anh
chàng người yêu đó là một người có chức, có quyền lại khỏe mạnh, rất đô, rất
dữ. Nhưng khi người yêu yêu cầu : Anh đừng hút thuốc lá nữa, anh đóng hộ em đôi
guốc, anh bơm hộ em cái xe đạp, v.v… thì anh chàng trai thực hiện một cách rất
nhanh nhẹn chu đáo và còn đầy hạnh phúc.
Ngày xưa có câu đại khái “Làm đày tớ thằng khôn còn
hơn làm thày thằng dại”. Người nắm quyền lực phải là người “khôn” mới có quyền
lực thật. Tôi nhớ trong một cuốn tiểu thuyết mới đọc, có một câu bình luận về
một ông thủ trưởng cơ quan : “Ông ta rất thích quyền lực, ông ta xử sự một cách
đầy quyền thế. Nhưng khi ông ta đã biết dùng quyền lực của ông ta mang lại bao
nhiêu lợi ích cho cơ quan, làm cho cơ quan đó những bước tiến vẻ vang. Cả cơ
quan cần cảm ơn quyền lực của ông ta” – Một người như vậy đã sống đầy đủ cho
mình và cho mọi người. Những kẻ hám quyền lực và tệ hơn là những kẻ bất tài chỉ
dựa vào quyền thế, cố giữ “chân ghế” hơn “chân lý” – thực chất chỉ biết sống
cho một mình hắn mà thôi.
Vấn đề sống cho mình và sống cho mọi người là một vấn
đề rất khó khăn. Tôi cho rằng ta phải biết sống cho ta một cách trung thực dũng
cảm, thực sự coi trọng nhân cách mình thì mới thực sự biết tôn trọng người
khác, tôn trọng nhân cách người khác, biết tạo nên được một cách sống hài hòa
cho mình và cho mọi người – Hiện nay cũng lắm người nói đến nhân cách, vận nhân
cách ra để xỉ nhục người khác là thiếu nhân cách, kém nhân cách. Nhưng tôi tin
rằng nhiều người trong số nói đến nhân cách hoặc chưa biết nhân cách là cái gì
hoặc là nói đến cái từ hay ho đó để che giấu cái kém nhân cách của chính bản
thân mình.
Không phải chỉ tỏ ra quan tâm tới những người khác mà
tự cho mình đã sống vì mọi người. Phải có một lý tưởng vững chắc, phải đặt cả
cuộc sống của mình vào một lý tưởng sống thì có cơ sở để sống một cách tốt đẹp
vì mình và vì mọi người. Những anh hùng chiến sĩ của ta đã có những hành động
anh hùng, xả thân vì lý tưởng độc lập tự do và xã hội chủ nghĩa là những người
có nhân cách đẹp nhất. Cái chết của họ chính là sự sống đúng đạo lý xã hội chủ
nghĩa, đúng đạo đức cộng sản chủ nghĩa nhất. Chúng ta đang còn sống, chúng ta
cần suy nghĩ nhiều đến cái “Sống” của những người đã không còn nữa ! Và vì vậy
Lẽ sống thật sự là linh hồn của lối sống, trong bất cứ điều kiện sinh hoạt vật
chất thế nào?
Tháng 6 - 1984
(Trích Trần Độ tác phẩm, Tập II, Nxb Hội Nhà văn, 2012)
Tháng 6 - 1984
(Trích Trần Độ tác phẩm, Tập II, Nxb Hội Nhà văn, 2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét