1. Kế thừa và phát triển là quy luật phát triển của văn
hoá – ta nói cách tân, cải cách là ta nói về một việc làm cụ thể có ý thức để
thực hiện quy luật đó. Văn hoá luôn luôn
sống và trong quá trình văn hoá sống cùng với xã hội, tự nó cũng cứ diễn ra quá
trình kế thừa và phát triển, một quá trình phủ định những cái gì là cũ, lỗi
thời và sáng tạo cái mới phù hợp. Quá trình này liên tục.
2. Có sự kế thừa phát triển một cuộc sống tương đối ổn
định, trong một xã hội tương đối ổn định. Sự kế thừa và phát triển này diễn ra êm
ả, chậm chạp có nhiều khi ta không nhận thấy, nhưng nó vẫn diễn ra.
Có sự kế thừa phát triển đi đôi với những biến động lớn
nhỏ của xã hội. Có khi sự biến động chính trị của xã hội đẻ ra sự phát triển mạnh
mẽ về văn hoá. Nhưng cũng có khi sự phát triển mạnh mẽ của văn hoá (có tư tưởng
là yếu tố then chốt) dẫn đến biến động chính trị của xã hội.
3. Đất nước ta đang trải qua cuộc
cách mạng toàn diện, triệt để và sâu sắc.
Cuộc cách mạng đó đòi hỏi nhiều sự phủ định văn hoá cũ
và nhiều sự phát triển văn hoá mới. Quá trình kế thừa phát triển này diễn ra dày
dặc, phức tạp, khẩn trương ở nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Những giá trị văn hoá cổ
truyền của ta vừa phong phú, vừa nặng nề. Ta không phân tích tình hình này một
cách tỉnh táo thì hoặc là ta rơi vào bảo thủ nặng nề, hoặc là ta rơi vào chủ
nghĩa hư vô tai hại.
4. Văn hoá quá khứ của xã hội ta
chứa đựng nhiều yếu tố dân chủ, nhân đạo cao quý nhưng cũng chứa đựng nhiều
chất cổ hủ, lạc hậu và phản động.
Xã hội ta trong quá khứ là xã hội phong kiến thực dân,
có hai dòng văn hoá :
Dòng văn hoá của nhân dân lao động tự nó có những yếu
tố tiến bộ, nhưng nó cũng bị ảnh hưởng không ít của tư tưởng thống trị của giai
cấp phong kiến phản động và thực dân xâm lược.
Dòng văn hoá thống trị về bản chất là phản động nhưng
cũng chứa đựng những tinh thần yêu nước chống ngoại xâm tích cực và do đó nó cũng
không thiếu những yếu tố tiến bộ của dòng văn hoá của nhân dân lao động.
Văn hoá thực dân cũ và mới tuy là văn hoá của giai cấp
tư sản, về ý nghĩa lịch sử, nó tiến bộ hơn văn hoá phong kiến, nhưng nó lại được
coi như những thủ đoạn xâm lược nên nó được pha trộn với tất cả những gì phản động
nhất của thế giới tư bản và giai cấp phong kiến bản địa. Do đó nó đầu độc một cách
nguy hại tinh thần nhân dân, nhưng nó cũng góp phần phá vỡ những gì bền vững lâu
đời của văn hoá phong kiến. Ngược lại, nhiều yếu tố của văn hoá phong kiến cũng
phát huy tác dụng chống chọi lại tác dụng phá vỡ bản sắc dân tộc của văn hoá thực
dân.
Các loại văn hoá với tính giai cấp phức tạp như vậy đặt
ra cho ta nhiệm vụ lựa chọn cực kỳ khó khăn và phức tạp.
5. Nền văn hoá mà ta đang xây
dựng và hướng tới phải đạt được là nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Nền văn hoá đó
phải có những tinh thần cơ bản là:
- Nền văn hoá của nhân dân lao động, của sự lao động,
coi lao động là nghĩa vụ và niềm vui,
- Nền văn hoá của tinh thần tập thể, của chủ nghĩa tập
thể,
- Nền văn hoá của tinh thần dân chủ chân chính triệt để,
- Nền văn hoá của tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa,
vì con người, vì hạnh phúc của con người,
- Nền văn hoá của tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời nền văn hoá đó là nền văn hoá Việt Nam của dân tộc Việt Nam. Nền văn hoá Việt Nam là một bộ phận của văn hoá thế
giới, góp phần vào những giá trị và những hình thức độc đáo của Việt Nam, làm tăng
thêm sự phong phú của văn hoá thế giới.
6. Một vấn đề lớn của văn hoá là lối sống. Lối sống ở
Việt Nam phải là lối sống xã hội chủ nghĩa, nhưng lối sống xã hội chủ nghĩa Việt
Nam phải chứa đựng những tư tưởng triết học dân gian của dân tộc Việt Nam, thấm
nhuần nhiều điểm của tinh thần dân chủ và nhân đạo. Tinh thần dân chủ và nhân đạo
là tinh thần của văn hoá xã hội chủ nghĩa nhưng ở Việt Nam nó phải giữ được bản
sắc dân tộc Việt Nam và văn hoá xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải làm cho bản sắc
dân tộc đó phát triển đậm đà thêm. Nó phải trở thành một vẻ đẹp của văn hoá thế
giới.
Lối sống xã hội chủ nghĩa Việt Nam có bản chất là tư tưởng xã hội chủ nghĩa, là những
phong tục đẹp đẽ, những nghi thức lễ hội mang tâm hồn Việt Nam. Ta phải chắt lọc trong rừng rậm những phong tục và
những nghi thức lễ hội cổ truyền mà rút ra những giá trị phù hợp với tư tưởng xã
hội chủ nghĩa và mang bản sắc dân tộc Việt Nam.
Như vậy, phải có thái độ hết sức
trân trọng và một tinh thần phê phán sâu sắc đối với tất cả các phong tục tập
quán, các nghi thức lễ hội của cộng đồng và của gia đình các dân tộc anh em
trên đất nước Việt Nam. Phải khắc phục triệt để thái độ
đơn giản, thô thiển và thô bạo : hoặc giữ tất hoặc xoá sạch.
* * *
7. Văn nghệ là một yếu tố đặc biệt của văn hoá, có tính
chất tiêu biểu của văn hoá. Vì vậy trong sự kế thừa và phát triển nghệ thuật có
nhiều vấn đề phức tạp, tinh tế và khó khăn hơn.
8. Phải thấu hiểu được bản chất nghệ thuật trong khi tìm
hiểu những tinh hoa của các giá trị nghệ thuật cổ truyền.
Nghệ thuật với bản chất của nó là sáng tạo và thuộc thế
giới tình cảm có tính đặc thù rõ rệt, nên trong sự kế thừa và phát triển của nó,
nó không chấp nhận bất cứ một thứ công thức
nào, một sơ đồ nào. Những công thức như kiểu “bình cũ rượu mới”, “hậu kim, bác
cổ”, “trọng xưa vì nay” đều chỉ có thể dùng được cho từng trường hợp mà không
thể là công thức chung được.
Mỗi loại hình nghệ thuật có sự kế thừa phát triển riêng.
Mỗi loại hình nghệ thuật của địa phương này, của dân tộc này lại cũng có sự kế
thừa phát triển khác ở địa phương khác, trong dân tộc khác.
9. Một điểm quan trọng của việc kế thừa và phát triển
các môn nghệ thuật là phải đi sâu nắm cho chắc nguồn gốc giá trị vốn nghệ thuật
cổ truyền, phải hướng sự khai thác vào các giá trị của tinh thần dân chủ và nhân
đạo của các tác phẩm và loại hình nghệ thuật cổ truyền, phải phân tích được đến
bản chất các mặt của ngôn ngữ nghệ thuật : bản chất của phương pháp thể hiện của
ngôn ngữ nghệ thuật cổ truyền, bản chất của phương pháp sáng tạo ngôn ngữ, phương
pháp sáng tạo của thủ pháp nghệ thuật cổ truyền. Phải phân tích được chỗ giống
nhau và khác nhau các đối tượng của ngôn ngữ nghệ thuật cổ truyền và của ngôn
ngữ nghệ thuật hiện đại. Phải tổng kết được phương pháp hiện đại hoá các công
trình và ngôn ngữ nghệ thuật cổ truyền của ta vì nó đã có nhiều thành tựu trong
văn thơ, trong âm nhạc (mà chủ yếu là ca khúc và một số nhạc cụ) và ta còn nhiều
lúng túng trong kiến trúc, tạo hình và sân khấu. Có sự kế thừa, phát triển và có
cả sự bảo tồn. Cần có những phương pháp và hình thức bảo tồn cho tốt. Có bảo tồn
tốt, ta mới có cơ sở để nghiên cứu sự kế thừa và phát triển.
10. Một điểm khác là cần phân tích vấn đề nội dung và
hình thức của các môn nghệ thuật; nội dung tác phẩm phải phù hợp với hình thức
biểu hiện.
Không phải bất cứ môn nghệ thuật nào chứa đựng một cách
tốt đẹp nội dung là cuộc sống xã hội trong lịch sử, những nhân vật lịch sử đều
có thể thích hợp để chứa đựng nội dung là cuộc sống mới và con người mới. Không
phải chỉ có thay đổi hình thức biểu hiện hoặc cải cách hình thức là giải quyết
vấn đề phát triển. Không phải ngẫu nhiên mà mỗi giai đoạn lịch sử lại đòi hỏi có
những thể loại nghệ thuật mới, những loại hình nghệ thuật mới, những hình thức,
tác phẩm nghệ thuật mới. Nội dung đòi hỏi hình thức thích hợp và hình thức quyết
định sức mạnh để chứa đựng và biểu hiện nội dung.
Nghệ thuật vốn có cái mà ta hay gọi là “cái thần” của
nó. “Cái thần” của nghệ thuật là kết quả của sự phù hợp giữa nội dung và hình thức.
Sự phù hợp này tạo ra một sức mạnh, một sự hấp dẫn, một bản chất vô hình. Chỉ có
kế thừa đúng “cái thần” đó và phát triển “cái thần” đó, nghệ thuật cổ truyền mới
phát triển thực sự được. Kế thừa và phát triển không phải chỉ là việc khai thác
từng yếu tố và từng chi tiết. Phải vận dụng những yếu tố và chi tiết trong mối
quan hệ kết cấu của nó để nắm lấy “cái thần”: “cái thần” có lẽ chính là cái đẹp,
cái cao cả của nghệ thuật cổ truyền và nó thích hợp với cả nghệ thuật hiện đại.
Vì vậy càng nên hết sức tránh những suy nghĩ đơn giản
nông cạn về việc phát triển các môn nghệ thuật cổ truyền và do đó phải mò mẫm lâu
ngày trong các sự gượng ép và thất bại.
11. Nghệ thuật, dù là kế thừa và phát triển nghệ thuật
cổ truyền, luôn luôn phải có sáng tạo. Vì vậy phải chú ý mối quan hệ giữa chủ
thể sáng tạo và các nghệ sĩ sáng tác với chủ thể sáng tạo là công chúng. Cần phải
có sự kết hợp hài hoà và sự hỗ trợ lẫn nhau.
Không thể cứ lấy những ý định sáng tạo chủ quan của
nghệ sĩ sáng tác áp đặt cho công chúng. Chính công chúng có một sức mạnh của tâm
hồn dân tộc. Tâm hồn của công chúng là nơi thử nghiệm các sự kế thừa và phát
triển nghệ thuật một cách chính xác nhất. Mọi sự phát triển có tồn tại được hay
không, đạt tới thành công hay không phải do công chúng công nhận. Chỉ có công
chúng công nhận, những thành tựu phát triển mới sống được, mới thực sự phát triển
trong cuộc sống và trở thành sự phát triển thực sự.
Trong các hiện tượng nghệ thuật, ta còn gặp những sự
lai căng, gượng ép, gặp sự không chấp nhận của công chúng, không phải là vì công
chúng kém nhận thức hiện đại mà là vì những hiện tượng nghệ thuật mới mẻ chưa
phát triển phù hợp với tâm hồn công chúng.
Mọi hiện tượng công chúng thờ ơ với vốn nghệ thuật cổ
truyền, một mặt là do ta chưa có sự giáo dục phổ cập cần thiết, nhưng mặt khác
là do các hiện tượng nghệ thuật kế thừa chưa phát triển đúng với sự phát triển
của tâm hồn công chúng, chưa chinh phục được công chúng, chưa đi sâu được vào lòng
công chúng. Rõ ràng trong khi thanh niên ta ít biết và còn thờ ơ âm hưởng dân
ca thì hiện đại hoá chiếm được cảm tình của đa số thanh niên và nhiều lứa tuổi
khác.
Không nên coi việc kế thừa và phát triển nghệ thuật chỉ
là việc riêng của các nghệ sĩ sáng tác mà là việc của tất cả mọi người phải
quan tâm và coi trọng nhu cầu, nguyện vọng của công chúng. Tất nhiên ta phải nhấn
mạnh nhu cầu lành mạnh và nguyện vọng chân chính của công chúng và vận dụng tích
cực chức năng giáo dục của nghệ thuật.
12. Cần phải đặt sự kế thừa và phát triển nền văn hoá
nghệ thuật dân tộc trong mối quan hệ quốc tế và trong mối quan hệ với sự phát
triển khoa học kỹ thuật hiện đại.
Quan hệ quốc tế về văn hoá của nước ta diễn ra trên
nhiều mặt :
a) Văn hoá của ta quan hệ với văn
hoá các nước xã hội chủ nghĩa anh em,
b) Văn hoá của ta với văn hoá quá khứ của thế giới, của
nhân loại,
c) Quan hệ với văn hoá của thế giới tư bản hiện đại,
d) Với văn hoá các nước đang phát
triển, với văn hoá khu vực và láng giềng.
Các mối quan hệ trên được diễn ra một cách có ý thức và
cũng được diễn ra một cách tự nhiên tất yếu. Có các mối quan hệ đó, ta vừa có
những khả năng to lớn và phong phú để phát triển văn hoá của ta, nhưng ta cũng
gặp những nguy cơ về văn hoá bị xâm nhập, bị đầu độc, những nguy cơ về văn hoá
dẫn đến những tổn thất về chính trị, về tư tưởng. Những sự giao lưu văn hoá có
khả năng làm cho văn hoá dân tộc được mạnh mẽ hơn, chứ không phải chỉ có hại
cho văn hoá dân tộc, làm tổn thương văn hoá dân tộc. Đó cũng là một quy luật ta
cần nắm vững.
Văn hoá nghệ thuật dân tộc phát triển trong điều kiện
cách mạng khoa học kỹ thuật rộng lớn và mạnh mẽ. Ta phải biết hiện đại hoá
nhanh chóng nghệ thuật cổ truyền, ta phải coi trọng các thành tựu khoa học kỹ
thuật và sử dụng những thành tựu đó để làm đậm đà thêm bản sắc dân tộc của nghệ
thuật dân tộc và giới thiệu nghệ thuật dân tộc của ta với thế giới. Ta không thể
lẩn tránh khoa học kỹ thuật mà phải biết sử dụng nó.
Việc hấp thụ các tinh hoa của văn hoá thế giới và việc
học tập kinh nghiệm thế giới phải nhằm làm cho nền văn hoá dân tộc phát triển mạnh
mẽ và phong phú, làm cho văn hoá cổ truyền của dân tộc được phù hợp nhanh chóng
với thời đại. Không bao giờ nên đối lập hai mặt văn hoá dân tộc và văn hoá thế
giới với nhau.
Tóm lại, sự kế thừa và phát triển
văn hoá - nghệ thuật là một quy luật của văn hoá. Sự kế thừa và phát triển đó
cần tuân theo một số nguyên lý cơ bản:
- Phải nắm vững những yếu tố tích cực phù hợp với nguyên
tắc xã hội chủ nghĩa trong văn hoá - nghệ thuật cổ truyền làm tiêu chuẩn cơ bản
để định hướng sự kế thừa và phát triển,
- Phải nắm vững quan hệ nội dung và hình thức, để vận
dụng sự kế thừa và phát triển một cách biện chứng và linh hoạt,
- Phải nắm vững quan hệ giữa chủ thể sáng tác của nghệ
sĩ và công chúng chủ thể sáng tạo, mọi thử nghiệm phải được tiến hành trong cuộc
sống,
- Phải nắm vững quan hệ giữa văn hoá dân tộc và văn hoá
thế giới. Phải làm chủ được cả văn hoá thế giới và văn hoá dân tộc, không nên đối
lập dân tộc và hiện đại, để có vẻ sánh vai thế giới mà rồi rút cục không hay không
đẹp thì cũng không phải kế thừa và cũng không phải phát triển. Vấn đề là ta có
những tác phẩm nào hay (tốt và đẹp) được nhiều người yêu thích và cảm phục chứ
không phải ta đã có bao nhiêu tác phẩm có ý định kế thừa, có ý định phát triển.
Có thể còn rất nhiều vấn đề phức tạp khác. Ở đây chỉ
xin nêu lên gợi ý mấy ý kiến lớn để góp phần vào sự nghiên cứu vấn đề này còn đang
phải tiếp tục lâu dài.
10-1986(Trích Anh bộ đội, Nxb Văn Học, 2017)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét