Trước
cách mạng tháng Tám, ở chiến khu, quân đội ta còn lấy tên là Quân Giải phóng,
lúc đó báo quân giải phóng cũng đã ra được hai số rồi. Cách mạng tháng Tám
thành công, đồng chí Võ Nguyên Giáp gọi tôi đến giao nhiệm vụ tiếp tục ra tờ
Quân Giải phóng, và phải tiếp tục ngay số 3.
Thẻ nhà báo Vệ Quốc Quân có chữ ký của Chủ nhiệm Báo Trần Độ |
Nhưng
đến số 5 thì báo phải đổi tên. Vì sao phải đổi tên? Bác Hồ cho gọi tôi lên
giải thích. Bọn Tàu Tưởng sắp bám gót quân đồng minh vào nước ta. Chúng đòi
tước vũ khí quân đội. Chính phủ ta giải thích cho chúng rõ, ta chưa có quân
đội, chỉ có quân khởi nghĩa, do đó quân đội ta cần phải đổi tên lại là Vệ Quốc
đoàn. Chữ đoàn có nghĩa là đoàn thể, chứ không phải là quân đội. Vì vậy tờ báo
không thể mang tên Quân Giải phóng.
Việc
đổi tên báo quả là một vấn đề! Cầm chắc số lượng in sẽ bị hạ. Tên báo lại không
được in màu đỏ như Cờ Giải phóng, tờ báo của Đảng mà nhân dân tin cậy và háo
hức đọc. Chúng tôi lấy tên báo là Chiến thắng. Đúng như tôi dự đoán số lượng
báo hạ hẳn, ít người mua. Dù vậy tờ báo vẫn phải ra. Mỗi tuần một kỳ, mỗi số 8
trang, có khi mười trang.
Thời
kỳ này, có sự lục đục giữa bọn Quốc dân đảng và Đại Việt trong sự tranh chấp Bộ
Quốc phòng. Ta dùng chính sách mềm mỏng. Bên cạnh Bộ Quốc phòng ta thành lập
Quân sự ủy viên hội gọi tắt là Quân ủy hội thuộc của Chính phủ Liên hiệp, có Vũ
Hồng Khanh tham gia, cũng có Cục Chính trị do đồng chí Trần Huy Liệu làm Cục trưởng,
tôi làm phụ tá. Còn Bộ Quốc phòng cũng có Cục Chính trị do Trung ương Đảng ta
trực tiếp chỉ đạo.
Lúc
đó trong quân đội ta có hai tờ báo: tờ Sao Vàng và tờ Chiến thắng. Đồng chí
Trần Huy Liệu phụ trách tờ Sao Vàng.
Kháng chiến bùng nổ tôi vẫn phải làm chính ủy khu Hà
Nội. Cục Chính trị chuyển lên Việt Bắc, Bộ tham mưu lúc này gồm có nhiều cục
như Cục Quân giới, Cục Chính trị... Cục Chính trị do đồng chí Văn Tiến Dũng
phụ trách.
Đến lúc này tờ báo của Quân đội xuất hiện lại và lấy tên
là Vệ Quốc quân. Số l ra ngày 22/3/1947.
Trên tờ báo ghi rõ: “Tờ báo của Quân đội Việt Nam”.
Đến
số 5, báo ra mỗi tuần hai kỳ, đến số 9 lại ra mỗi tuần một kỳ. Trên đầu tờ báo
ghi thêm: “Chính trị Cục, Bộ tổng chỉ huy phát hành”.
Khi
báo ra đến số 8 (19/6/1947),
tôi được chính thức giao nhiệm vụ phụ trách. Nhưng đến số 2l, mới đề rõ chủ
nhiệm là Trần Độ.
Lúc
ấy ngoài Trung ương có tờ Quân du kích, Vui sống, Vệ quốc quân, các quân khu
khác cũng đều có báo.
Việt
Bắc: Báo Quyết Thắng
Khu
II: Báo Chiến Đấu
Khu
III: Báo Quân Bạch Đằng
Khu
IV: Báo Chiến sĩ
Khu
X: Báo Vệ quốc
Khu
XI: Báo Thủ đô
Khu
XII: Báo Xông pha.
Ít
lâu sau, tất cả các khu đều nhất loạt đổi tên thành báo Vệ Quốc quân như Vệ
Quốc quân khu II, Vệ Quốc quân khu IX...
Công
tác ở toà soạn Vệ Quốc quân có: Trần Độ, Tân Sắc (Thôi Hữu), Thâm Tâm, Từ Bích
Hoàng, Trúc Kỳ và các họa sĩ Mai Văn Hiến, Dương Bích Liên. Anh Vũ Cao cùng
tham gia ban biên tập, nhưng không ghi tên. Ngoài ra, một số đồng chí cán bộ
quân đội cũng tham gia vào bộ biên tập mở rộng.
Về
nội dung, mấy số đầu Vệ Quốc quân mới chỉ có mấy chuyên mục chiến tranh. Các
bút danh mang rõ dấu ấn quân sự như : Nguyễn Văn Bom, Liên Thanh, Ba-dô-ca, ...
Từ
số 8 trở đi, báo phong phú dần lên với thơ, truyện ngắn, bút ký, phóng sự. Có
cả mục “Những chuyện vui buồn” điểm bích báo các đơn vị của các khu. Tôi nhớ như
số 12 có truyện ngắn Nhập vào hàng ngũ của Tuấn Vinh; số 13 có Những mẩu
chuyện vui buồn của Trần Độ, số 21 (ngày 15-8-1948) có bài Lên Cấm Sơn của Tân
Sắc; số 23 có bài bút ký Chiến sự Hà Nội của Tô Hoài; số 24 có Bức thư chính
trị của Nguyễn Tuân.
Trần
Đăng viết bút ký, phóng sự như Thất Khê, Lũng Phầy. Trận phục kích Lũng Phầy,
Vũ Tú Nam
cũng đăng truyện ngắn Người lính miền Tây. Có một lần báo tổ chức cuộc thi viết
truyện. Truyện Vết xe hằn trên đường của Hoàng Điệp được giải khuyến khích.
Không có giải nhất.
Ngoài
truyện ngắn, Vệ Quốc quân cũng đăng khá nhiều thơ. Những bài Lên Côn Sơn, Viếng
bạn có tiếng vang rộng rãi. Có chiến sĩ chỉ viết và đăng được một bài thơ đã hy
sinh như Phạm Lương với bài thơ Chiến sĩ Lũng Vài. Thời gian này tôi cũng viết
và viết khá nhiều loại như phóng sự, bút ký, truyện ngắn, bình luận, xã luận.
Tôi rất hay viết và say viết.
Đặc
biệt có hai số báo liên tiếp đăng tin buồn, làm mọi người bàng hoàng, xúc động.
Số
48-49 đăng tin mất Hoàng Lộc, số Xuân 50 đăng tin Trần Đăng hy sinh vào ngày 26/12/1949.
Nhớ
lại Trần Đăng những ngày đầu về toà soạn báo, khoảng 1948 (trước đấy anh làm
thư ký trong Tổng Bộ tham mưu). Toà soạn của chúng tôi đóng ở gần Bộ Tham mưu,
nên anh thường hay qua chơi. Anh thường kể cho chúng tôi nghe những chuyện hay
ở mặt trận. Chúng tôi rất quý mến anh. Anh đề nghị xin về làm phóng viên cho
báo. Chúng tôi đồng ý ngay và xin với Bộ Tổng tham mưu. Bài báo đầu tiên của
anh in vào số 21 ngày 15/8/1948 “Vài
suy nghĩ về văn nghệ trong giai đoạn chiến lược lần thứ mười hai”.
Thâm
Tâm làm thư ký toà soạn. Anh có biệt tài “bao sân”. Báo thiếu mục nào là anh
lập tức có bài ngay để lấp chỗ trống. Làm nhiều, nhưng anh không hề kêu ca. Còn
anh Từ Bích Hoàng thì hiền như con gái. Từ Bích Hoàng là sinh viên y khoa. Nếu
tôi nhớ không nhầm thì tên thật anh là Trần Hồng. Tôi vẫn nhớ như in có lần gặp
anh trong bộ com-lê bằng đũi đứng gác trước doanh trại ở Hà Nội.
Mai
Văn Hiến làm hoạ sĩ cho báo. Người to lớn như Tây. Rất say mê vẽ cảnh. Nhiều
lần lạc đơn vị. Do mũi giống như Tây nên hay bị du kích bắt giữ lại, chúng tôi
phải đến xin anh về.
Dương
Bích Liên thì thâm trầm. Có lần để trình bày cho số báo kỷ niệm 19-8, anh vẽ
hình một anh vệ quốc rất gầy. Chúng tôi có ý băn khoăn. Anh tranh luận với
chúng tôi: Bộ đội chúng ta từ nông dân mà ra, gầy là tất nhiên. Có thế tờ tranh
mới toát lên tinh thần vùng lên của những người nghèo khổ. Chúng tôi phải chiều
anh.
Ảnh: Trần Độ, Chủ nhiệm báo “Vệ Quốc quân” (1947 – 1950) |
Có
một chuyện khá vui. Tình hình kháng chiến đòi hỏi các cơ quan phải quân sự hóa,
nghĩa là phải luôn luôn ngăn nắp, trật tự để có thể sẵn sàng di chuyển và chiến
đấu. Tôi thường báo động tập hợp anh em để kiểm tra tác phong
quân sự. Có lệnh báo động bất ngờ. Anh em toà soạn khẩn trương chạy ra địa điểm
tập hợp với ba lô, hành trang đầy đủ. Mai Văn Hiến và Dương Bích Liên cũng có
mặt kịp thời nhưng ba lô lép kẹp. Hai anh tỏ ra rất lúng túng. Tôi nghi ngờ,
cho kiểm tra ngay nhà các anh ở. Chị chủ nhà tươi cười ngăn tôi lại không cho
vào nhà. Tôi cứ vào. Trên chiếc chõng tre, chỗ các anh làm việc thấy lùm lùm
một chiếc chiếu. Hóa ra các anh Hiến và Liên đang làm việc, đồ đạc còn lung
tung. Nghe liếng còi tập hợp, các anh cuống quá, chưa biết làm thế nào thì chị
chủ nhà hiến kế, các anh không kịp đắn đo, theo ngay. Tôi vừa buồn cười vừa cảm
động trước tình quân dân thắm thiết và ngây thơ đó.
Phải
nói rằng trong những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ, tình quân dân rất
khăng khít. Cơ quan chúng tôi cùng với cơ quan tuyên truyền đóng chung một bản.
Chúng tôi đóng ở bản Vẹ, chợ Chu,
huyện Định Hóa, Thái Nguyên. Ngoài làm báo chúng tôi còn có nhiệm vụ tuyên
truyền. Thường hình thức tuyên truyền chính là mỗi chiều phát tin bằng loa
giấy. Nhờ đó mà chính sách của Đảng và tin chiến thắng ở chiến trường được
thông báo kịp thời xuống tận dân bản. Ngoài việc phát tin chiến sự và các chủ
trương chính sách, chúng tôi còn phát những bài viết về tình hình trong bản,
nên được dân bản rất hoan nghênh. Dân thường ngóng đợi chúng tôi đến để được
nghe phát thanh của Bộ đội.
Ở
bản Vẹ ngày mùa có sinh hoạt giã cốm rất vui. Bộ đội chúng tôi cũng tham gia
giã cốm cùng với anh em thanh niên. Nhất là những đêm trăng sáng. Tôi cũng rất
thích tham gia. Dân làng rất quý trọng cán bộ. Anh Tân Sắc có làm bài thơ Mùa
cốm mới. Bài thơ này anh làm để cho vui nội bộ, không có ý đăng báo. Xin trích
lại đây hai đoạn:
Rồi
cốm lên tàn, xanh rười rượi.
Lửa
hồng củi đượm, chảo rang thơm
Đêm
trăng, chày đập vang thôn bản
Phấn
cốm bay bay phủ lá ngàn.
Đàn
trẻ nô đùa quanh cối trăng.
Tiếng
ca lay động cả đêm rừng,
Vài
anh đồng chí ngừng tay giã.
Hương
cốm tình dân, thấm dạ vàng.
Bài
thơ này chỉ còn tìm thấy được hai đoạn này thôi. Toàn bài có lẽ có đến sáu hay
tám đoạn.
Xin nói về hội nghị văn nghệ toàn quân. Hay có thể gọi
là hội nghị văn nghệ quân đội.
Hội nghị tổ chức ngày 9/4/1949. Người tham dự không phải chỉ có anh em văn nghệ sĩ
trong quân đội mà còn có các anh em văn nghệ sĩ quen biết khác. Lúc ấy các văn
nghệ sĩ kháng chiến có thể chia ra làm ba nhóm:
-
Nhóm thứ nhất gồm anh em công tác trong Phòng Tuyên truyền bộ đội và báo Vệ Quốc
quân như các anh Thâm Tâm, Nguyễn Xuân Khoát, Mai Văn Hiến, Thế Lữ, Phạm Văn
Khoa, Tân Sắc, Nguyễn Công Hoan (lúc ấy đang làm giám đốc trường văn hóa quân
đội),
-
Nhóm thứ hai gồm các văn nghệ sĩ đi với các đơn vị, làm công tác chính trị ở
các trung đoàn như Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, ...
-
Nhóm thứ ba gồm các anh em văn nghệ sĩ ở cơ quan văn nghệ, nhưng thường xuyên
tham gia chiến dịch như: Tô Hoài, Nguyễn Tuân. Các anh ấy tuy không ở trong
quân đội nhưng sinh hoạt như anh em bộ đội. Đại đoàn 308 là đơn vị kết nghĩa
của các anh.
Anh Thế Lữ, Lưu Hữu Phước, Phạm Văn Khoa tổ chức những
đội văn nghệ phục vụ hội nghị. Anh Thế Lữ chính thức tham gia đội kịch. Anh
Phạm Văn Khoa cũng tham gia, nhưng không có chức danh. Anh viết kịch bản, đóng
vai, lại có khi làm cả quản lý.
Hội nghị tiến hành trong bảy ngày. Có tổ chức triển lãm.
Anh Võ Nguyên Giáp, anh Tố Hữu cũng đến dự (ngày 16/4/1949). Nội dung hội nghị xoay quanh những vấn đề chính sau
đây:
-
Văn nghệ phục vụ quân đội để chiến thắng. Phải xây dựng một nền văn nghệ mới,
tiêu biểu cho thời đại mới, xứng đáng với cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Trong nhiệm vụ phục vụ quân đội chiến đấu gom lại có mấy vấn đề chính:
+
Phong trào đầu quân;
+
Phong trào rèn luyện cán bộ và huấn luyện bộ đội;
+
Chuẩn bị các chiến dịch và vận động dân chủ;
+
Công tác địch hậu;
+
Tình đoàn kết quân dân;
+
Sự phát triển của các binh chủng: bộ binh, pháo binh, công binh...;
+
Công tác địch vận.
Qua nội dung những đề tài trên có thể hình dung được sự
phát triển của cuộc kháng chiến. Năm 1949 quân đội ta mới ở thời kỳ thường
xuyên phải chuẩn bị đối phó, đề phòng địch tấn công, nên năm nào hết mùa hè cũng
có công tác chuẩn bị thu đông. Đến năm 1950, đã có chiến dịch Biên Giới, rồi đến
chiến dịch Điện Biên phủ. Nội dung “chuẩn bị thu đông” lúc này lại là chuẩn bị
tấn công địch ở các chiến dịch. Bên cạnh bộ binh đã có pháo binh, công binh,
cao xạ...
Tôi
còn nhớ như in những ngày chuẩn bị đi chiến dịch sao mà náo nức lạ lùng! Ai
cũng phấn khởi. Anh em hăm hở viết bích báo, làm thơ ca, hò vè.
Cơ
quan tòa soạn chúng tôi cũng có tờ bích báo, lấy tên Cù. Anh em phong cho tôi
là thừa tướng của nước Cù và có một Feuilleton (Truyện nhiều kỳ) do Thâm Tâm là
tác giả lấy tên là Cù Quốc chí diễn nghĩa. Rất nhiều bài có nội dung vui nhộn
được đăng trên bích báo. Cũng có những bài có nội dung phê bình nhẹ nhàng nhưng
thấm thía. Mỗi tờ bích báo của đơn vị có thể xem là linh hồn của đơn vị ấy.
Trong
kháng chiến chống Pháp các văn nghệ sĩ được nhân dân hết sức quý trọng. Lý do
chính là anh em rất gần gũi, đi sát quần chúng. Tôi càng thấy rõ điều đó khi
rời tờ báo về công tác tại các đơn vị.
Trong
những buổi mít tinh hoặc hội họp, anh em văn nghệ sĩ thường ngâm thơ, hát hò,
kể chuyện cho dân nghe. Tôi còn nhớ, mỗi lần anh Nguyễn Xuân Khoát hát hài
Thằng Bờm hoặc Con Voi đều được quần chúng hoan hô nhiệt liệt. Trong những buổi
sinh hoạt với anh em, tôi cũng hay kể những mẩu chuyện tôi được xem trong các
sách văn học nước ngoài như Cơn bão táp, Suối thép, Đội thanh niên cận vệ...
anh em rất thích.
Tuy
trong thời gian ấy, hình thức văn nghệ còn quá đơn sơ, nhưng vẫn có sức hấp dẫn
và có tác dụng giáo dục.
Xin
nêu một ví dụ cụ thể là vở kịch Thúng thóc, lấy từ câu chuyện kể khổ của một
chiến sĩ. Câu chuyện làm xúc động mọi người. Chúng tôi lấy câu chuyện đó, sáng
tác tập thể thành vở kịch Thúng thóc. Vở kịch này có sức kích động rất mạnh. Ở
địa điểm diễn vở, chúng tôi phải đào sẵn giao thông hào. Vì mỗi lần vở diễn đến
đoạn địa chủ cướp bóc thì thế nào diễn viên đóng vai địa chủ cũng bị quần chúng
ném đá tới tấp, anh ta phải vội nhảy vào giao thông hào mới khỏi bị tai nạn. Có
chiến sĩ xem xong vở này, đi lang thang như người mất hồn. Có những trạm quân y
phải chuẩn bị sẵn thuốc men đề phòng khi có chiến sĩ nào xúc động bị ngất hoặc
có ai bị ném đá.
Tôi
cũng bị một lần hú vía. Do là chính ủy, nên tôi ngồi hàng ghế đầu. Có anh rỉ
tai bảo tôi nên lui vào phía sau để tránh bị đá ném. Tôi không nghe. Đang lúc
say sưa xem, đến đoạn địa chủ hắt nước sôi vào anh cố nông, thì vèo vèo, hàng
loạt đá bay đến. Tôi vội ngồi thụp xuống. Sân khấu bỗng vắng tanh. Anh em diễn
viên chạy trốn hết. Nhưng một lúc sau, vở kịch lại được diễn tiếp, nhưng phải
tiếp ngay màn thắng lợi là màn cuối cùng. Kết thúc là những tràng pháo tay nổ
ran. Khi kịch diễn cảnh nông dân vùng lên đánh đổ địa chủ, mọi người hả hê ra
về. Thật vui vẻ, sôi nổi. Chẳng ai còn nhớ chuyện ném đá vừa xảy ra. Bài học
quan trọng rút ra ở đây là văn nghệ sĩ phải khơi đúng nguyện vọng, tâm trạng
của quần chúng. Quần chúng sẽ ủng hộ nhiệt liệt.
* * *
Thế
mà đã hơn 30 năm qua. Nhớ lại những ngày kháng chiến rất gian khổ, ăn uống sơ sài, quần áo chẳng có gì, đồ đạc
cũng không, nhưng sao ấm cúng thế. Tòa soạn báo chúng tôi như một gia đình,
chia sẻ với nhau từng niềm vui nỗi buồn, từng mẩu khoai, củ sắn, nhường nhịn
nhau từng bát cơm, manh áo.
Đầu
năm 1950, tôi được giao phụ trách Chính ủy Trung đoàn Sông Lô mà anh Lê Trọng
Tấn đang làm Trung đoàn trưởng. Tôi không theo dõi được tờ báo nữa. Sau này
Trung đoàn Sông Lô phát triển thành Đại đoàn 312. Tôi được chỉ định làm phó
Chính ủy rồi Chính ủy Đại đoàn. Tôi lại tiếp tục chỉ đạo cơ quan chính trị của
Đại đoàn, ra tờ báo riêng của Đại đoàn (in đá) lấy tên là Anh Dũng. Trong
khoảng 3-4 năm, tờ báo ra được khoảng trên dưới 20 số khá đều. Tôi tiếp tục
viết nhiều bài xã luận cho các số báo Anh Dũng. Tôi còn tiếp tục viết bút ký,
truyện ngắn, bình luận, đặc biệt là hay dịch và lược dịch các truyện chiến đấu
của nhân dân Liên Xô, in và phát cho bộ đội đọc trong lúc hành quân vào chiến
dịch.
Ngoài những tác phẩm văn học
đáng chú ý của các nhà văn chuyên nghiệp, những hoạt động văn học nghệ thuật
của bộ đội cũng tạo nên một mạng lưới rộng rãi, góp phần đáng kể vào bức tranh
chung của văn học trong kháng chiến chống Pháp. Trên đây tôi xin cung cấp ít kỷ
niệm riêng để chứng minh sự kiện đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét