Thứ Tư, 28 tháng 2, 2024

Một thời Võ, một thời Văn


Nhà báo Xuân Ba
 
Đôi điều về tác giả Xuân Hồng, cộng tác viên của báo Tiền Phong, cũng chính là Trung tướng Trần Độ, nhà văn Trần Độ.


Tôi không quen ông, lại chưa bao giờ giáp mặt ông cả. Vốn hậu sinh, tôi chỉ biết ông nhiều năm là cộng tác viên của báo Tiền Phong. Sau một loạt bài đăng trên Tiền Phong, chủ đề bàn về lý tưởng thanh niên và sống đẹp, với bút danh Xuân Hồng, nhiều bạn đọc đã gửi thư về báo Tiền Phong hoan nghênh loạt bài viết ấy và hỏi thêm: Xuân Hồng có phải là Trung tướng Trần Độ không? Lúc ấy có nhiều lý do chưa tiện công bố công khai trước bạn đọc, Tiền Phong đành “lờ” không trả lời cụ thể mà chỉ nói đó là một cộng tác viên lâu năm và thân thiết của Toà soạn.
Cho tới một bữa gần đây, người phụ trách cơ quan đưa cho tôi cái giấy mời họp có ký tên: Trần Độ. Phía trên chữ ký là chức danh của người ký giấy: Chủ nhiệm Ủy ban Văn hoá và Giáo dục của Quốc Hội. Cái nghề báo, hàng ngày tiếp xúc với các loại, các kiểu giấy mời là sự thường nhưng coi kỹ tôi cho đây là một cái giấy mời hơi lạ: Thông qua thuyết trình của Ủy ban Văn hoá và Giáo dục tại kỳ họp thứ X Quốc hội khoá VIII. Nội dung tất nhiên là bình thường nhưng lạ là phần ghi chú: Nếu đồng chí thấy nội dung trên cần quan tâm thì mời tới dự! Có nghĩa là người chủ trì không cho công việc này là bắt buộc mà có nghĩa là đến cũng được mà không cũng chẳng sao!
Tôi đến dự kèm theo một tẹo sự tò mò. Không như tôi nghĩ, nội dung của buổi họp đó khá hấp dẫn. Tôi không phải tường trình ở đây. Khi người ta giới thiệu ông, người chủ trì cuộc họp hôm nay của Ủy ban Văn hoá Giáo dục, quả thực tôi hơi ngạc nhiên Trung tướng Trần Độ, đã bao lần tôi nghe cái danh ấy nhưng bây giờ gặp trông ông chả có tướng, có chất “militari” (nhà binh) tí nào. Ông có chất giọng rủ rỉ vừa nghe mà cũng khúc chiết và lọt tai lắm. Các thành viên Ủy ban những ông Huy Cận, nhạc sĩ Huy Du,… đều chăm chú nghe ông, chắc chắn không phải là lịch sự. Tiện có cuốn “Danh sách đại biểu Quốc hội khoá VIII” để trên bàn của Ban chúng tôi lật giở tìm vần “Đ”. Đây rồi, ảnh ông không giống lắm như hiện nay. Trên tấm ảnh là mấy dòng: Trần Độ (Tạ Ngọc Phách) sinh năm 1922. Quê quán: Tiền Hải, Thái Bình (cuốn sách in năm 1987 nên ghi chức danh lúc đó của ông là Trung ương uỷ viên, Trưởng Ban Văn hoá Văn nghệ Trung ương, Phó Chủ tịch Quốc hội). Bây giờ ông chỉ giữ chức cuối.
Bằng một giọng rủ rỉ trầm ấm ông trình bày thuyết trình của mình trước các thành viên uỷ ban (sau này những lời nói đó đã được ông công bố trên diễn đàn của kỳ họp thứ X, Quốc hội khoá VIII). Tôi dám chắc ai đó, phàm đã có tí viết lách, có tâm khi nghe những lời ấy đều nhận xét quan điểm của người đứng đầu uỷ ban là sòng phẳng và nhân hậu. Riêng tôi, đến giờ giải lao vẫn chưa lắng nghe hết sự xúc động. Thấy ông đứng một mình ở hành lang, tôi đến bên và tự giới thiệu. Hoá ra làm quen với ông không khó. Ông có một cái gì đó tự tin khiến người bên cạnh thêm cởi mở chứ không phải xa lánh đề phòng hoặc dè chừng. “À, tên Trần Độ ấy ư – ông cười hiền lành châm một điếu thuốc khác (ông hút thuốc mới khiếp chứ, luôn miệng) – tên cha mẹ đặt cho mình là Phách, là Tạ Ngọc Phách. Chả là hồi cướp chính quyền ở Hà Nội, mật danh của mình là Độ. Có một cuộc họp, khi vào người soát giấy nói “Đồng chí là Độ hả. Tên hay đấy, thôi lấy luôn họ Trần đi. Tất nhiên là Trần Độ thôi chứ không phải Trần Thủ Độ đâu nhé”. Mình cũng thấy hay hay và có tên ấy từ hồi đó…”.
…Tôi tìm đến nhà ông lý do không phải được mời. Các thành viên Ủy ban đều đề địa chỉ nhà riêng, số điện thoại (nếu có). Biết tôi đến, một đồng chí phụ trách cơ quan vì bận không tới được đã nhờ tôi chuyển lời hỏi thăm và chúc sức khoẻ nhân dịp ông năm 1992 này lên lão bảy mươi. Nhà ông ở cuối đường Trần Hưng Đạo tính từ phía số lẻ gần ga Hàng Cỏ. Người ra mở cửa cho tôi là ông. “Cậu đấy hả”. Có mỗi lần gặp ngắn ngủi thế mà ông vẫn nhận ra tôi, lại cả nhớ tên nữa… Ông mời tôi vào nhà. Cố “căng” sự xét đoán thăm dò nhưng tôi thấy ông tự nhiên, cởi mở không có tý gì cái vẻ khó chịu lạnh nhạt thường gặp ở những người phải tiếp loại khách không mời mà tới… Bộ pijama và ánh đèn nê-ông làm chủ nhà càng thêm mảnh dẻ xanh xao, càng không có những nét quắc thước thường thấy ở các vị tướng.
…Tướng quân mời tôi ngồi. Căn phòng rộng vừa phải, không có xa-lông. Bàn uống nước của ông bé tý gồm hai mảnh ván ghép lại trên để một tấm kính. Tôi ngờ vực nhìn những chồng sách xếp tầng tầng lớp lớp từ bàn trà lan ra giữa nhà, tràn lên cả hộc tường. Báo, tạp chí tiếng ta, tây cũng xếp từng lớp đầy đặn như thế. Đã hết đâu, thử ngó vào buồng trong chỗ kê chiếc gường đôi. Lại cũng sách! Ba chiếc giá đóng kiểu thường thấy ở thư viện vây quanh gường đậu đầy sách. Tấm ri-đô ngăn cách giữa phòng khách và buồng vốn là tấm “tăng” hồi chiến sĩ ta đi B, anh nào cũng có. Bên cạnh tấm tăng là chiếc võng ni-lông màu Tô Châu, kế bên có ngọn đèn rủ xuống nằm võng mà đọc thì tiện phải biết. Tôi nói mình ngờ vực khi nhìn khối lượng sách đáng kể trong nhà ông cũng có lý do đấy. Đến tư gia một số quan chức trong thành phố, tôi thấy không ít nhà bày rất nhiều sách. Lắm lúc thích lên ngứa mồm hỏi các “cụ” đã đọc cuốn nọ cuốn khác đang có trên giá kia chưa thì chỉ nhận được sự cười trừ. “Thời gian đâu mà đọc”. Có điều dễ nhận ra số sách báo tạp chí ở nhà ông nói hơi lộn xộn kém ngăn nắp so với một số nhà tôi đã đến. Cái lộn xộn thường thường thấy ở sự làm việc.

Xuân 1984 trong căn phòng của Ông.

 “Cứ tự nhiên Ba nhé” – ông rót trà ân cần đưa tận tay tôi - Cậu lần đầu đến nhà chứ cánh viết trẻ thường hay tới chơi luôn (tôi hơi hoảng vì bỗng dưng ông xếp cái thằng làm báo quèn như tôi vào hàng viết lách). Nào Thiệp, Hoài và Bảo Ninh nữa… Hả, cậu bảo mình nhận xét gì về cuốn “Thân phận tình yêu”? Nào uống nước đi, chuyện còn dài mà… Ông rút ra một điếu thuốc (thứ thuốc ông hút là loại bét của thị trường thuốc Hà Nội nhưng có cái tên đến là kêu “Souvenir”) nhưng chưa châm lửa mà cứ vê vê giữa hai ngón tay (mặc dù rất nghiện nhưng không thuộc loại tục hút mà đó là cái thói quen của ông mỗi khi mải mê việc gì). Ông nheo nheo mắt hơi cười nhìn tôi “Là cậu hỏi nhận xét của mình với tư cách một thằng lính đã 10 năm đánh Pháp và 10 năm chiến trường miền Nam hay tư cách nguyên một Phó Tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Nam? Thôi đùa tý cho vui, theo mình cuốn viết được lắm. Mình rất ưng khi vừa rồi cuốn sách được tái bản với cái tên “Nỗi buồn chiến tranh”. Ở chiến trường nên mình hiểu sự mất mát và nỗi đau của người lính. Có lần ở chiến trường mình đã nói tâm sự với các tướng và cũng là những người bạn thân như Lê Trọng Tấn, Hoàng Cầm, Văn Phác rằng qua được cuộc chiến tranh này không mắc bệnh thần kinh là còn may lắm. Những hồi chuông điện thoại những tin dữ báo về. Mình ở đầu mối trung tâm nên biết trước nhất, biết tất cả cái được, mất trong các chiến dịch, trận đánh. Biết bao nỗi đau cứ tích lại, tích lại mãi. Ngay đến ngày chiến thắng, nỗi đau chiến tranh vẫn còn đeo bám. Mình kể cậu nghe, không hiểu sao cánh lính lại rất tin mình trước khi ra trận khối thằng cứ gửi lại, đứa thì đồng hồ, đứa thì bộ quần áo, cái bút bảo rằng trận này không may em “đi” thì anh mang về cho bố mẹ vợ con hộ em. Lấy tư cách là thủ trưởng, mình phải cao giọng mắng át đi rằng chúng mày trước khi ra trận chớ có nói gở… Chúng nó cười “Thủ trưởng đừng giận, bằng linh tính của mình, em biết chứ!”. Đúng là nhiều đứa không về thật. Khổ nhất là khi ra Bắc, tìm đến nhà từng thằng mà trao di vật lại cho người thân. Phải nhìn phải cảm được, đánh giá được nỗi đau và sự mất mát đó thì mới thấy cuộc kháng chiến của chúng ta thực sự vĩ đại. Cậu ban nãy có hỏi tấm ảnh kia chụp ở đâu, ai tặng, mà mình chưa kịp trả lời… Vũng Rô đấy (phải nói tấm ảnh đen trắng cỡ 18 x 24 cm lồng trong khung kính chụp hai phần vịnh biển, tiền cảnh chụp một phần núi đá có hàng lau phơ phất. Nếu nói tiêu chuẩn một tấm ảnh phong cảnh như thế là khá đạt) mình tự chụp sau ngày toàn thắng bảy lăm. Cảnh khá nên thơ phải không, nhưng cũng chính nơi đó đã xảy ra một tổn thất rất lớn của đội quân vận tải “đường mòn Hồ Chí Minh trên biển” khi vận chuyển vũ khí vào Nam. Có chiến thắng nào mà không giành bằng máu. Bảo Ninh có cái lý của nó. Mừng cho lứa các cậu, viết thế là được. Ba cuốn tiểu thuyết được giải “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Thao Trường, “Bến không chồng” của Dương Hướng và cuốn của Bảo Ninh mình đọc một mạch. Mà cũng hay, ba thằng ấy đều là lính cả…”
Chiếc kim ngắn của đồng hồ tường cứ nhích dần, nhích dần. Tôi quên cả thói quen của mình là hay liếc đồng hồ… Chúng tôi đang bén chuyện thì có tiếng gõ cửa. Cái dáng lòng khòng của nhà viết kịch Tào Mạt xuất hiện. Hai người trao đổi với nhau chuyện chi đó có vẻ tâm đắc lắm. Tôi lảng về phía góc phòng thơ thẩn ngắm nhìn tấm Huân chương Quân công hạng Nhất của Nhà nước tặng trung tướng Trần Độ và la liệt những cuống huân huy chương khác bày ở cạnh giá sách. Tôi cứ lấy làm lạ cơn cớ chi, con đường nào đưa anh thanh niên Tạ Ngọc Phách đỗ bằng thành chung có dáng dấp thư sinh từ bé mê say văn học trở thành… ông tướng. Hồi còn học thành chung, ông đã đóng ba cuốn sổ bằng giấy “pơluya” dày chép kín những là thơ tình của Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ,… Ông ngốn ngấu các tác phẩm của Emin Zola, Balzac, Erenbua, Tôn-xtôi,… bằng tiếng Pháp (ngoài tiếng Pháp, ông còn đọc sách tài liệu bằng tiếng Nga, Trung Quốc). Ông tâm sự sở dĩ ông đến được với cách mạng, dễ gần với cách mạng là do đọc… nhiều sách… Theo ông, người cách mạng, người cộng sản, trước hết phải là người tốt.
…Nhà viết kịch Tào Mạt vội vã đi cũng như vội vã đến. Ông nắm tay khách ân cần tiễn ra cổng. Lát sau quay vào giọng ông hồ hởi “Mình tưởng bệnh ung thư sẽ cướp đi của nước Nam một nghệ sĩ nữa, nhưng may thay Tào Mạt vẫn khoẻ mạnh. Hình như chẩn đoán sai thì phải…” Người ta nói và ông cũng tự nhận mình là người đa cảm? “Có lợi hay có hại cho nghiệp binh?”. Ông cười “Chả có gì là mâu thuẫn cả. Con người ta tiếp xúc với văn học thì được sống nhiều cuộc đời. Là người lính, là ông tướng, chính khách hay là gì gì đi nữa nhưng người nghèo nàn về tâm hồn quả là một sự thiệt thòi nếu không muốn nói đó là thảm hoạ…”. Cái nghiệp văn cứ đeo đẳng và bám riết ông gần như cả đời. Khi là phó chính uỷ khu II, ông phụ trách phòng tuyên truyền Việt Bắc, ông được cử phụ trách tờ báo Vệ Quốc Quân. Ông còn nhớ chỉ non một năm, ngoài công việc chính, ông đã tham gia viết hơn trăm bài báo, viết cả thơ, truyện ngắn, kịch… Lại vẫn dành thời gian đọc tiểu thuyết tây tàu… Chuyện ông kể khó tin nhưng là sự thực: ông chả qua chức binh nhất, binh nhì hoặc cấp uý nào cả mà sau khi thôi công việc chính uỷ liên khu, ông được phong thẳng lên đại tá năm 1947, rồi năm 1958, lúc ông 35 tuổi “khắc” thành tướng, thiếu tướng. Hàm tướng khi đó chỉ trên dưới chục người. Năm 1964 ông đi chiến trường B vừa đốc trận vừa đảm trách công việc của Phó Chính uỷ Quân giải phóng miền Nam. Ông nói vui: “Cuộc đời mình có thể nói chia làm ba giai đoạn: 10 năm đánh Pháp, 10 năm xây dựng quân đội trong hoà bình và 10 năm ở chiến trường chống Mỹ. Những năm tháng ấy mình thấy có ý nghĩa nhất”. “Thế còn sau này…”. Tôi rụt rè hỏi… Ông cười không trả lời mà lui cui pha ấm trà mới. “Tớ không có con gái nhưng bù lại có bốn cô con dâu, mình quý chúng nó lắm. Nhân buổi gặp mặt gia đình, “một chị chàng” lựa lúc vui vẻ nói với mình thế này “Bố ạ, con rất quý và nể trọng bố nhưng cũng phải nói thẳng ra rằng bố không làm lãnh đạo được đâu…”. Mình cười, khuyến khích “Con cứ nói hết ý mình đi”. “Con nói thế vì bố đa cảm quá, bất kỳ ai bố cũng cởi mở, bộc trực, tính cách không hợp với người lãnh đạo, nhất là làm chính trị…” Hừm, lúc đó mình giận nó quá nhưng không nói gì chỉ “faire silence” (im lặng) thôi. Nhưng hơn 10 năm qua, ngẫm lại nó nói có phần đúng đấy chứ. Mình nhiều lúc ngây thơ thật cậu ạ. Ở đời theo mình cái khó nhất là biết nghe. Mình học mãi đấy mà vẫn có lúc sượng! Tớ kể câu chuyện này… Hồi còn là Trưởng Ban Văn hoá văn nghệ Trung ương, có một nơi mời mình đến nói chuyện. Sau phần nói chuyện là chương trình đọc thơ của các tác giả chuyên nghiệp và không chuyên. “Mình được nói bao nhiêu phút đây?” Cậu trưởng ban tổ chức cười “Thưa anh, anh muốn nói bao nhiêu cũng được ạ…”. Mình bước lên diễn đàn đầy cảm hứng thao thao liền một mạch. Nhưng sao thế kia? Vừa nói mình vừa liếc xuống thấy thính giả mặc dù ra vẻ chăm chú nhưng có vẻ thờ ơ, người thì quay đi hướng khác, người thì thầm nói chuyện với người ngồi cạnh. Mình chột dạ nhìn đồng hồ: chưa đến mười phút mà… Thử chuyển đề tài xem sao, 5 phút nữa trôi qua. Tình hình phía dưới vẫn không được cải thiện, có người còn kín đáo lấy tay che miệng ngáp. Mình quyết định nói thêm 5 phút nữa nếu không “xoay chuyển” được tình thế thì sẽ kết thúc. Năm phút liền sau đó “cục diện” chẳng khá hơn. Thế là mình quyết định kết thúc. Bất ngờ một tràng pháo tay ran lên kéo dài tưởng vỡ hội trường. Mình bước xuống diễn đàn, cậu trưởng ban tổ chức bắt tay mình “Thưa anh, anh nói hay lắm”. Mình biết tỏng chú chàng nịnh nhưng chẳng nói gì. Liền sau đó là diễn giả giới thiệu các nghệ sĩ lên đọc thơ. Cậu biết không, những tràng pháo tay vang lên tuy không dài như trước nhưng nhìn kỹ ánh mắt háo hức say mê biểu hiện lòng nhiệt thành của các khán giả đối với các nhà thơ và nghệ sĩ, mình hiểu ngay rằng trước đó người ta vỗ tay “khen” mình biết sớm kết thúc. Người ta đến đây là nghe thơ chứ không phải nghe mình nói chuyện về một đề tài mà họ chẳng mấy quan tâm… Này nếu chẳng hạn cậu mà ngáp một cái thì câu chuyện giữa chúng mình sẽ kết thúc ở đây. Nhưng mà thôi, mười một giờ rưỡi đêm rồi. Hẹn khi khác nhé…”.
Ông khoác thêm cái áo ngoài và đưa tôi ra tận cổng. “Lúc nào rảnh lại chơi”. Tôi giữ tay ông lâu hơn một chút. Bàn tay ông lão bảy mươi mềm mà ấm…
31-12-1991
(Báo Tiền Phong, tháng 1.1992)

(Trích Nhớ Nhà văn Trần Độ, Nxb Văn Học, 2013) 

1 nhận xét: