Nhà văn Võ Bá Cường
Tổ công tác giúp việc cho Trung ương hồi đó có anh Phong, chị Sáu, chị Cương và một số đồng chí. Cơ quan đóng ở nhà anh Hội làng NG… thuộc huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội, cũng là nơi ở của đồng chí Trường Chinh.
Tổ công tác giúp việc cho Trung ương hồi đó có anh Phong, chị Sáu, chị Cương và một số đồng chí. Cơ quan đóng ở nhà anh Hội làng NG… thuộc huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội, cũng là nơi ở của đồng chí Trường Chinh.
Đó là một căn nhà trống, chỉ có vách nứa lụp sụp. Nhà
không có cánh cửa và cổng đóng. Bù lại sự trống trải đó là tiếng cười của mấy
đứa trẻ, con anh chị Hội và tính tình chị rất ấm áp nên đem lại niềm vui cho
mọi người!
Chiều 24/5/1944, theo lệnh của anh Trường Chinh, các tổ công tác đều về họp. Vừa bước
chân vào nhà anh Hội, ai cũng cảm thấy nỗi buồn lạnh người, khi nhìn thấy chị
Sáu gục đầu trên bàn thờ bụi bậm nhà anh Hội khóc. Còn chị Cương nằm xoài ôm
lấy cái thúng rách, đầu tóc rũ rợi trên đất, hai vai rung lên nức nở …
Không thấy anh Trường Chinh đâu (anh Toàn) mọi người
lo lắng ngó quanh, thấy anh ngồi một mình,
im lặng trong buồng tối, tay anh đang vê vê tờ giấy như muốn bóp vụn ra, mắt
anh đỏ hoe. Đồng chí tổ trưởng văn phòng bước gần lại chị Sáu. Chị ngước lên
buồn bã nói: “Anh ấy …” rồi lại gục đầu khóc.
Hôm đó là ngày tòa án binh Pháp tuyên bố xử tử anh
Hoàng Văn Thụ (anh Lý) là Ủy viên thường vụ Trung ương Đảng. Anh bị bắt 8/1943
(tại phường Tân Mai, Hà Nội ngày nay), bị kết án tử hình vào (1/1944) và bị bắn
ngày 24/5/1944.
Trong thời gian bị bắt, tổ chức đã nhiều lần tìm cách
cứu anh nhưng vô hiệu …
Là nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Cộng sản Việt Nam, anh Hoàng Văn Thụ rất quan tâm tới mối quan hệ giữa
Đảng và giới trí thức. Anh là người có tâm hồn, thích làm thơ. Những bài thơ
anh để lại thường được quần chúng rất ưa thích.
Trước khi bị bắt anh có viết bài Nhắn bạn
Việc nước xưa nay có bại thành,
Miễn sao giữ trọn được thanh danh.
Phục thù chí lớn không hề nản,
Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành.
Thân dẫu lao tù lâm cảnh hiểm,
Chí còn theo dõi buổi tung hoành
………………………………
1944
Anh là người giới thiệu đồng chí Võ Nguyên Giáp và
Phạm Văn Đồng gặp Bác ở Thúy Hồ - Trung Quốc. Trước khi đi, anh còn
dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Gặp được Bác thì hỏi vấn đề “Liên hiệp các dân
tộc áp bức ở Á Đông”. Thế mới biết cái nhìn xa trông rộng của anh.
Hội nghị Trung ương VIII, anh
được bầu vào Ban Thường vụ trung ương, trong đó có anh Trường Chinh và Hoàng
Quốc Việt. Chính hội nghị ấy ở Khuổi Nậm từ (10 - 19/5/1941), anh Thụ đã góp
tài trí của mình trong việc đặt ra tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và bàn
lấy lá cờ Tổ quốc do phụ nữ Hà Nội thêu và Bác đã chọn lá cờ đó vì nó xuất hiện
ở cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.
Cuộc đời anh Thụ rất khổ, đã có lần anh rơm rớm nước
mắt khi đọc bài thơ “Kêu gọi thiếu nhi của Bác” trong đó có câu: “Có khi
lìa mẹ, lìa cha/Để làm tôi tớ người ta bên ngoài …”.
Sau cùng, anh Trường Chinh nói: “Báo nên có bài khóc
anh Thụ. Một bài thơ càng hay”.
Từ hôm đó, mọi người đều nghĩ về anh Thụ, và lẳng lặng
suy nghĩ những điều đồng chí Trường Chinh nói, viết nên bài thơ dài 44 câu theo
thể song thất lục bát.
Đọc bài thơ thấy hào khí của người anh hùng, và thấy
cảnh tàn ác của thực dân Pháp, cảnh thê lương của chiến tranh. Có đồng chí đã
lẳng lặng chép bài thơ đó thành nhiều bản đem dán ở trường bắn Tân - Mai nơi xử
anh Thụ.
Anh hy sinh lúc 38 tuổi, cái tuổi dồi dào sức lực,
nhiều tài năng trí tuệ đang đóng góp cho Đảng chuẩn bị cho cuộc tổng khởi
nghĩa. Bài thơ như một hiệu triệu kêu gọi đồng bào đồng chí, như tiếng thét
muôn dân
“Tiếng súng thét anh Hoàng Văn Thụ,
Thân đổ nghiêng máu đổ tuôn tràn.
Pháp trường ảm đạm màu tang,
Cây rung hạt lệ khóc trang anh hùng.
Mười lăm năm vẫy vùng ngang dọc,
Anh đã vì dân tộc hy sinh...”…
Người đọc nấc nghẹn khi đọc đến câu
“Ba mươi tám tuổi đời anh,
Tắt trong một buổi bình minh khói mờ
Đoạn kết bài thơ tác giả đã cho ta cái nhìn nghĩa khí
của những ngày cách mạng tháng 8 – 1945 sắp tới.
“Cờ khởi nghĩa tung bay trước gió,
Đoàn quân đi cây đổ núi rung.
Xông pha rửa nhục non sông,
Và cùng rửa hận anh hùng Việt Nam …
Người viết bài thơ đó, họ Tạ, tên Phách (Tạ Ngọc
Phách).
Ít lâu sau tác giả được cử đi công tác cùng đồng chí
Trường Chinh. Đến quãng đồng vắng không bóng người, chỉ có gió thổi lúa reo,
đồng chí Trường Chinh bảo tác giả đọc lại bài thơ đó để cùng nghe. Khi đọc đến
câu:
“Anh kiêu hãnh
giữa trường tra tấn,
Dù gan run máu cạn
không phai...” tự dưng anh bảo thôi không đọc nữa. Lúc ấy anh
Trường Chinh đã rút khăn ra lau nước mắt.Phố Đậu 3/3/2007
(Báo Tiền Phong online, ngày 06/5/2007)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét