Trận mở màn.
Chiều hôm nay, chiều 13-3-1954, khắp nẻo rừng xôn xao,
nhiều đơn vị nhắc lại chuyện căm thù, tiểu đội 2 nhiều đồng chí vẫn còn sụt sùi
nghĩ lại cuộc đời của đồng chí Tuất vừa kể: “Đồng chí Tuất là một cố nông ở
Thái Bình, năm nay mới hơn 20 tuổi, vì mất mùa, gia đình phải vay của địa chủ
một thúng lúa. Thế là gia đình tan nát, bố đi làm thuê, mẹ đi mò cua bắt ốc.
Tuất phải đi ở cho địa chủ. Đi ở bị đánh đập nhiều, Tuất không chịu được lại về
đi mò cua với mẹ. Khi quân Pháp đánh chiếm vùng Tuất, chúng cấm mò cua ở đồng,
mẹ con Tuất đói quá, cứ đi mò, bị chúng bắt giam, đánh chết đi sống lại …”.
Các đồng chí nghiến răng nhìn thẳng ra đồn Him Lam,
coi như chính đồn này là nơi đầy máu và nước mắt của đồng chí Tuất và của nhiều
đồng chí và nhiều đồng bào khác. Các đơn vị đều hạ quyết tâm, đồng chí Chiêm ở
trung đội bộc phá cương quyết: “Gãy một chân còn chiến đấu, gãy một tay cũng hoàn
thành nhiệm vụ bộc phá”.
Lệnh xuất phát bắt đầu, các giao thông hào tưng bừng lên
như ngày hội. Điện của Hồ Chủ tịch mới đến: “Bác chờ tin các chú, Bác hôn các
chú”. Tiếng truyền đi vừa trân trọng vừa phấn khởi, âu yếm. Thư của Đại tướng,
của Chính phủ và Đại đoàn trưởng rộn lên những mệnh lệnh đanh thép, những lời
tin tưởng.
Dòng người rào rào chạy qua giao thông hào và ra phía
trước. Tiếng kèn “Tiến quân ca” của các đồng chí văn công ở bên cạnh chiến hào
rần rật như những hơi gió mạnh, lém như lửa rừng. Các đồng chí xung kích xúc động
đến gai người lên, nóng bừng mặt, bước đi tưởng chừng như bay bổng.
Trong bảo tàng Điện Biên Phủ năm 2014 |
Đúng bốn giờ, trọng pháo của ta bắt đầu nổ và cũng từ
giờ này bắt đầu đám tang cho tiểu đoàn thứ 3 của trung đoàn lê dương thứ 13,
con cưng của quân đội viễn chinh Pháp. Khắp cánh đồng Điện Biên dài mười cây số
khói lửa mù mịt, tiếng nổ hỗn loạn, gào thét, lửa toé như một cái đe thợ rèn vĩ
đại. Đồn Him Lam bẹp dúm dưới hoả pháo của ta. Cứ hàng trăm quả nện xuống một lúc
làm cho ba mỏm đồi trước kia ngạo nghễ, nay như run lên bần bật và tưởng chừng
sắp phải nứt rạn. Bộ binh trong các giao thông hào cứ nhấp nhổm tưởng chừng muốn
trông rõ xem địch bị chết ngập dưới hoả pháo của ta thế nào, nhiều đồng chí vỗ
tay: “Hoan hô pháo binh”.
Trên trời mấy cái máy bay lơ láo, đạn cao xạ của ta vút
lên như một cây bông rất lạ, một cái bốc cháy, những cái khác lượn cao tít. Thế
là từng đoàn dũng sĩ bộ binh từ các trận địa ào ào tiến ra. Chỉ sau đó sáu tiếng
đồng hồ, trước những tràng pháo bất lực của địch bắn vu vơ, đồn Him Lam thành một
cái mồ trắng phếch dưới ánh trăng mờ; hơn ba trăm tù binh lốc nhốc ra khỏi đồn
dưới mũi súng của các chiến sĩ ta.
Trận đánh thật ác liệt và cũng thật tưng bừng.
Đồng chí trung đội trưởng Diêm chỉ huy phá hàng rào thật
đẹp. Diêm đứng với tiểu đội trưởng Sâm bên cạnh hàng rào vẫy tay cho các chiến
sĩ lên. Chiêm vụt chạy lên dưới khói đạn, lòng vẫn đinh ninh với quyết tâm thư
vừa viết. Bộc phá đầu tiên nổ! Trong chớp
loè, Luận chạy lên, nhưng mới ra khỏi công sự thì bị ngã vật xuống. Chiêm xốc
xuống gọi Luận. Luận chỉ kịp nói: “Trả thù cho tôi”. Chiêm vằn mặt lên, giật
ống bộc phá lại chạy. Vừa gặp Thao vọt theo: “Anh Chiêm đốt lần thứ hai à?” Thao
bị thương vào tay rồi nhưng quyết tâm làm trọn nhiệm vụ. Chiêm nói qua hơi thở:
“Tớ trả thù cho Luận”.
Thế là chỉ trong mười lăm phút, mười tám tiếng nổ liên
tiếp vạch một con đường rộng thênh thang, ba tên lê dương ở lô cốt đầu tiên chạy
ra hàng.
Ở chỗ xung phong của chiến sĩ thi đua Nguyễn Hữu Oanh
tình thế càng gay, hai hàng rào phá xong rồi mà các chiến sĩ xung kích dán mình
trong giao thông hào bốn tiếng đồng hồ liền dưới những trận mưa đại bác.
Trong giao thông hào, trung đội trưởng Tuệ, đồng chí bí
thư chi bộ Đảng và là chính trị viên đại đội bò lên lại bò xuống, ghé vào từng
người giọng khàn khàn khói súng nói như quát: “Giữ vững quyết tâm nhất định cắm
cờ vào đồn địch, trả thù cho các đồng chí đã bị thương và hy sinh”. Các đồng chí
bị thương tươi cười: “Các cậu quyết tâm nhé! Trả thù cho tớ!”. Máu như sôi lên
trong người, Oanh, người chiến sĩ ngày thường hiền như bụt, rất ít nói mà hay cười,
bây giờ thì hăng như con sư tử.
Lá cờ ông Trần Độ trao cho Đại đội chủ công mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ |
Hai phát pháo hiệu trắng vọt lên trời, Oanh sửa lại ngọn
cờ cắm sau lưng, vút lên nhảy tụt xuống đầu giao thông hào. Chui qua một hàng rào
dây thép gai, lại vọt lên mặt đất ném thủ pháo, bắn tiểu liên vào một lô cốt, bịt
tắc lỗ súng của địch và nhanh như cắt lợi dụng các mô đất tiến qua các ụ súng vào
lô cốt cố thủ của địch cắm cờ, các tổ viên đi sau rất sát.
Trung đội phó Hội thì vẫn có một
lối đánh rất bình tĩnh nhưng rất dũng mãnh. Đồng chí bị thương, nhanh chóng tự
băng bó lại tiến lên. Đồng chí nhận được hoả điểm của địch rất nhanh, nép người
tránh, bắn che chở cho Oanh tiến. Tiểu liên hỏng, đồng chí lại bình tĩnh
nép mình ngay trước luồng đạn của địch, chữa lại rồi tiếp tục che chở cho Oanh
bắn tịt lỗ châu mai của địch.
Không thể nào không nhắc đến trung đội trưởng Tuệ một
mình ném mười bốn quả thủ pháo, bốn quả lựu đạn, bắn đến hai băng tiểu liên và
bắt hơn hai mươi địch; tả xung hữu đột, chỉ huy từng tổ, đồng chí lại tự mình xách
quả bộc phá mười cân vào lô cốt chỉ huy của tên quan tư Pê-gô, hắn đã bị bắn chết;
khắp mình Tuệ bị đến mấy chục mảnh lựu đạn bằng hột ngô rát nóng cả người.
Phấn khởi hơn là chuyện Thi và Can (Trần Can, chiến sĩ
thi đua trong chiến dịch Tây Bắc). Năm ngoái Thi và Can ở một tổ tự động tác
chiến chống bảy ụ súng địch ở đồn Bản Hoa trong chiến dịch Tây Bắc thì năm nay
tiểu đội trưởng Thi và tiểu đội trưởng Can nắm hai tiểu đội xung kích diệt bảy lô
cốt địch ở Him Lam. Can vẫn lối đánh nhanh nhẹn, dũng cảm, bắt tù binh gọi hàng
bạn nó, nhảy xuống giao thông hào, nhưng giao thông hào hẹp quá, Can lại nhảy lên
như sóc, diệt từ hoả điểm này sang hoả điểm khác, phất lá cờ “Quyết chiến quyết
thắng” trên lô cốt cuối cùng.
Tuất ghi nhớ mãi mối thù, tuy mới chiến đấu lần đầu nhưng
xông xáo theo sát bước tiến của Trần Can. Về sau tổ trưởng của đồng chí hy
sinh, đồng chí tự động điều khiển anh em chiến đấu. Diệt xong địch, Tuất vẫn
xung phong tiếp tục thu dọn chiến trường.
Còn Thi thì lầm lỳ, chắc chắn. Khi các tổ đánh toả đi
các nơi, Thi túm được hai nguỵ binh đứng một mình giữa đồn địch trong khi tiếng
súng còn nổ ran. Thi bắt một tên gác phía
sau có gì thì phải báo động, còn một tên đi lấy được bảy lựu đạn cho Thi ném.
Phải là một cán bộ gan góc, tự tin, có bản lĩnh của chính nghĩa chinh phục và
áp đảo được kẻ địch, mới có thể hành động như vậy.
Thi đua với Trần Can, tiểu đội phó Nguyễn Tất Hiếu trước
khi lên đường bắt tay mọi người trong tiểu đội, hứa hẹn lập công. Khi xung
phong vào tới đồn địch, sau khi diệt một ổ chống cự của địch, Hiếu phát triển rất
nhanh, gặp tổ nào cũng tự động phối hợp, gặp một ổ trung liên của địch ngoan cố,
Hiếu hô địch vận hai lần, địch vẫn bắn. Hiếu xông vào, một tay nắm lấy nòng súng
đang nóng bỏng của địch giật mạnh, một tay lộn ngược tiểu liên đánh vào mặt tên
địch một báng mạnh. Hiếu xông xáo tiếp tục cho đến hết trận đánh, lại còn cõng
anh em bị thương về vị trí, dùng sức đến nỗi về vị trí bị ngất đi. Hiếu là một
trong những anh hùng mới xuất hiện theo nhịp bước trưởng thành về tư tưởng cũng
như về chiến thuật của quân đội ta.
Nhưng ở ngay cửa đột phá của tiểu đội trưởng Ngọc Hỷ,
chúng tôi đã được thấy hình ảnh của Ma-tơ-rô-xốp Việt Nam. Đó là chiến sĩ anh dũng tuyệt vời Phan Đình Giót. Đánh
bộc phá, mở xong đột phá khẩu, đồng chí Giót bị thương nặng, các lô cốt địch
chung quanh vẫn dai dẳng bịt cửa đột phá của ta. Giót nhớ lại thư của Hồ Chủ tịch
nhắc trước giờ xuất kích: “Các chú đã chỉnh quân, chỉnh huấn, nhận rõ kẻ thù,
…”, Giót nghiến răng bò nhanh rồi vụt lên tựa mình vào lỗ châu mai của địch, hiến
cả một đời sống đang tươi mạnh cho trận đánh thắng, hiến mình cho Tổ quốc và nhân
dân.
Tiểu đội trưởng “dao nhọn” Ngọc Hỷ dẫn tiểu đội vượt
qua một lô cốt địch đã bị đại bác ta bắn sụp, đạp nhảy qua ba hàng rào dây thép
gai đánh thẳng một mạch trong hai phút qua hai lô cốt khác tiến vào một ổ cố thủ
của địch. Địch cậy có công sự, lại ở thế cao liên tiếp ném lựu đạn xuống. Một mình
Hỷ xung phong ba lần không được, lại gọi bộ đội khác tổ chức sáu đợt xung phong
liên tiếp nhảy xổ vào địch trong ánh chớp của thủ pháo, bắt sống hơn 20 tên.
Xung kích tiến vào đồn từng tốp như mưa bão. Quân lính
địch dần dần ra hàng hết. Có đồng chí chiến sĩ về sau tả bọn tù binh: “Chúng nó
ra mắt len lét, hai tay giơ lên trên trời rồi mà còn run lẩy bẩy, hét ngồi là
ngồi, hét nằm là nằm xẹp xuống hai tay vẫn giơ lên trời. Chúng ngồi lốc nhốc như
đàn cua. Khi bắt chúng ra khỏi đồn, chúng sợ quá, vì đại bác lúc đó bắn nhiều.
Về sau bắt chúng phải ra và ra lệnh cho chúng nằm bò ra giao thông hào của mình.
Chúng nằm bẹp xuống bò ra, trông như đàn giun, đàn rết”.
Đó là “khí phách” của quân đội tinh nhuệ mà thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ từng hết lời ca tụng.
Kể làm sao hết được tinh thần “Quyết chiến quyết thắng”
mà Bác Hồ và Đảng đã giáo dục cho toàn thể bộ đội. Nó đã thấm vào tim gan, thớ
thịt của mỗi cán bộ, mỗi chiến sĩ chúng tôi.
Trận đánh kết thúc, chúng tôi không bao giờ quên được
những giọt máu, những nụ cười của các liệt sĩ Giót, Hiếu, Luận, v.v… có những đồng
chí bị đạn không chắc mình sống nổi nhưng vẫn tươi cười động viên đồng đội. Thật
là những nụ cười thiêng liêng bất diệt, những nụ cười nói lên tất cả hạnh phúc
và tương lai của dân tộc ta và tội ác ghê tởm của quân xâm lược.
Những giọt máu của đồng chí Giót loang trước lỗ châu
mai, phủ trên nét mặt hiền lành là những giọt máu không ức, triệu lời nào ca tụng
hết. Nó sẽ kết thành ngàn vạn hoa tươi, quả đẹp, trăm nghìn công trình xây dựng
hoà bình của xã hội tương lai.
Các chiến sĩ chiến thắng hoan hỷ nhận được điện khen của
Đại tướng Tổng Tư lệnh và lại ráo riết chuẩn bị liên tục chiến đấu.
Trần Độ
Rút báo Nhân dân ngày 19-12-1954
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét