Thiếu tướng, Tiến sĩ, Nhà văn Nguyễn
Chu Phác
… Từ ngày 6 tháng 7 đến ngày 14 tháng 9 năm 1946, ta lại cử phái đoàn
sang Phông-ten-nơ-blô, Pa ri đàm phán với Pháp để cứu vãn
hòa bình. Trong khi đó, tại Việt Nam, quân Pháp tiếp tục đánh chiếm
nhiều nơi. Mặc dầu Tạm ước 14-9 đã được ký kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên
nhẫn căn dặn: “Còn nước còn tát” nhưng phải chuẩn bị tình hình khó khăn nhất.
Ngừng một lát, anh Trường Chinh nói tiếp:
- Cho đến nay, Pháp vẫn ngạo mạn đánh chiếm nhiều nơi và khiêu khích ta ở
Hà Nội. Tình hình ngày càng căng thẳng, khẩn trương, Thường vụ nhất trí giao
cho đồng chí Vương Thừa Vũ trở lại Hà Nội làm Khu trưởng Khu 11, Chỉ huy trưởng
mặt trận Hà Nội. Sau đây, đồng chí Vương Thừa Vũ gặp đồng chí Võ Nguyên Giáp để
nhận nhiệm vụ cụ thể. Đồng chí Giáp là Tổng chỉ huy nên người chỉ huy trực tiếp
đồng chí Vũ là đồng chí Giáp.
Đồng chí Phạm Văn
Đồng nói thêm:
- Trung ương cử các đồng chí Trần Quốc Hoàn làm
đặc phái viên tham gia Đảng ủy theo sát mặt trận, Nguyễn Văn Trân làm Bí thư
Đảng ủy mặt trận, Trần Độ làm Chính ủy Khu 11, có vấn đề gì về chính trị cần
trao đổi thì gặp các đồng chí ấy.
Đồng chí Lê Đức
Thọ cười vui đến bắt tay thân mật đồng chí Vũ tỏ vẻ tin tưởng.
Vương Thừa Vũ về
Hà Nội qua phố Hàng Da gặp anh Đặng Kim Giang. Biết tin Vũ được cử làm Chỉ huy
trưởng Mặt trận Hà Nội, anh Giang rủ vào chợ Hàng Da chiêu đãi một bữa bún riêu
cua, nhưng chỉ đủ tiền mua mỗi người một bát. Vương Thừa Vũ về Lò Lợn nhận bàn
giao của anh Lê Quảng Ba. Sau đó, Vũ về trường Đồng Khánh (nay là trường Trưng
Vương – Hà Nội) gặp Trần Độ – một thanh niên trẻ măng hai mươi ba tuổi nhận
nhiệm vụ làm Chính ủy mặt trận Hà Nội.
Trần Độ rất tự hào
về quá trình hoạt động cách mạng của mình từ khi được người chị ruột dìu dắt
năm mười ba tuổi đến khi bị giam cầm, tra tấn tại nhà tù Sơn La, rồi vượt ngục
ra tù tiếp tục hoạt động… Trần Độ gặp Vương Thừa Vũ, một anh chàng đầu húi cua,
da đen, lông mày du long, mắt sắc sảo, lầm lì, luôn luôn tỏ ra nghiêm khắc
trong sinh hoạt và công việc, lại hơn Trần Độ mười ba tuổi nên Trần Độ rất nể
và kính trọng.
Tuy chưa gặp nhau
bao giờ, nhưng Trần Độ đã được nghe nhiều chuyện về Vương Thừa Vũ. Từ chuyện học võ, học quân
sự ở bên Tàu, chuyện đấu võ chết thôi, Vũ đã hạ gục tên võ sĩ tay sai độc ác ở
Hỏa Lò – Hà Nội mà chị Nguyễn Thị Phúc
Hằng – vợ Trần Độ được tận mắt trông thấy tên võ sĩ tay sai cao to vạm vỡ ngã
gục trước một người tù gầy guộc, mảnh khảnh, rồi chuyện vượt ngục ở nhà tù
Nghĩa Lộ, Trần Độ thầm khâm phục. Vì thế hai vị chỉ huy trưởng và chính ủy
nhanh chóng trở thành đôi bạn thân thiết. Bữa “đại
tiệc” đầu tiên mà “Tư lệnh” và “Chính ủy”
gặp nhau (chỉ có hai người) được bày trên bàn dạy học của thầy cô giáo trường
Đồng Khánh. Cơm được đựng trong rổ tre lót lá chuối, món ăn có rau muống luộc,
lạc rang mặn và một bát tương, cũng đặt trên lá chuối.
Sau bữa “đại tiệc”, Vương Thừa Vũ cùng anh em tham mưu, văn phòng lao vào
công việc đi xem xét bốn mươi lăm nơi trọng yếu mà địch đã gài quân đóng sẵn và
một số nơi ở các nhà cao tầng khác binh lính Pháp mặc thường phục giả là kiều
dân cất giấu vũ khí ém sẵn.
Đến Liên khu 1,
sau khi làm việc với các đồng chí Lê Trung Toản, Hoàng Phương phụ trách công
việc đảng và chính quyền, đồng chí Nguyễn Văn Triệu và Toàn Vinh phụ trách quân
sự, gặp cán bộ cơ sở như Vũ Lăng, Vũ Yên…, Vương Thừa Vũ và Trần Độ vào thăm
gia đình ông Trịnh Văn Bô ở 48 Hàng Ngang thấy tơ, lụa, len dạ, vải vóc vẫn đầy
cửa hàng. Tiếng đàn dương cầm từ trên tầng cao vọng xuống, Trần Độ đứng lặng
yên để nghe và thốt lên: “Tiếng đàn du dương thánh thót kêu gọi đừng chiến
tranh đấy!”.
… Vương Thừa Vũ lại nghĩ, à, thế ra những người giàu có nhiều người yêu
nước. Một số vua quan và những người giàu yêu nước đời xưa chôn giấu vàng bạc
châu báu không phải chỉ để dành cho con, cho cháu, cho người sau chia nhau, mà
để đề phòng khi sơn hà xã tắc lâm nguy thì đem ra cứu dân cứu nước. Trước lúc
ra về, Trần Độ hỏi ông Bô:
- Chiến tranh xảy
ra thì vải vóc, tơ lụa, len dạ, ga-ba-đin Ăng-lê, … bao nhiêu thứ quý thế này
ông đưa đi đâu?
Ông Bô thản nhiên
đáp:
- Đem ra đường làm
chướng ngại vật, làm ba-ri-e, cần thì đổ xăng đốt thành bức tường lửa để ngăn
cản bước tiến của xe tăng, ô tô của Pháp.
Ông Bô dẫn Vương
Thừa Vũ và Trần Độ ra cửa sổ chỉ tay sang dãy phố bên kia thì thầm nói vẻ bí
mật quan trọng:
- Cũng theo lệnh
của Chính phủ cách mạng, khi nào khởi sự sẽ đục tường nhà nọ sang nhà kia. Quân
ta di chuyển trong hai bên dãy phố rất bí mật. Đường phố sẽ đào sâu vài mét
không cho ô tô, xe bọc thép, xe tăng của Pháp đi, đắp đất thành ụ, thành núi,
thành ba-ri-e. Các gia đình đưa cả giường tủ, tràng kỷ, sập gụ xếp cao lên. Nhà
tôi và các nhà cùng phố như ông Huân, bà Hà đã bàn với nhau cả phố đều làm như
vậy và đã lễ xin gia tiên đưa cả bàn thờ, hoành phi, câu đối, hương án ra đường
xếp thành đống to để ngăn cản giặc.
Khi Vương Thừa Vũ
và Trần Độ ra về, ông Bô bảo:
- Nhà có ô tô riêng cậu Nhỡ lái và một ô tô của ủy ban do cậu Thuận lái.
Để tôi gọi xe đưa các ông về.
Vương Thừa Vũ,
Trần Độ cảm ơn ông Bô, mỗi người một xe đạp lọc cọc đi tiếp về Liên khu 2 và
một số vùng ngoại thành.
Trở về sở chỉ huy,
Vương Thừa Vũ cùng cơ quan tham mưu làm việc với Ái Việt (sĩ quan quân đội Nhật
đầu hàng ta, được Bộ Tổng chỉ huy cử xuống góp ý với Mặt trận Hà Nội) ở ngôi
nhà hai tầng phía Bắc Ngã Tư Sở khoảng hai trăm mét. Các đồng chí Nguyễn Văn
Trân, Trần Quốc Hoàn, Trần Độ đi đến các phố phường giáo dục, vận động nhân
dân, tổ chức quần chúng, tổ chức các cơ quan nhà máy, xí nghiệp bộ phận tản cư
ra vùng tự do, bộ phận lên chiến khu, lực lượng ở lại chiến đấu với địch tại Hà
Nội… Công việc bận rộn, cả Bộ Chỉ huy, Đảng ủy Mặt trận quên ăn quên ngủ làm
việc không biết mệt mỏi.
* * *
… Chỉ huy trưởng
Vương Thừa Vũ nhớ cách đây vài ngày đã nghiêm khắc phạt bằng cách buộc một cán
bộ tham mưu phải ở trong sở chỉ huy làm việc mà không được ra khỏi nhà vì phạm
hai lỗi: một là bỏ việc đi hát “cô đầu”, hai là lên Nhật Tân uống rượu thịt chó
liên miên. Anh cán bộ tham mưu, rất thoải mái, nhận lỗi, nói:
- Em xin nhận khuyết điểm ở nhà làm việc ạ!
Anh Trần Độ cười
vui vui tán thêm vào:
- Hay bây giờ, ông
cho cậu ấy lên Nhật Tân mua thịt chó đem về đây cùng ăn, xem ngon thế nào mà
cậu ta mê thế.
Mọi người bật cười
vui vẻ.
… Vương Thừa Vũ nghĩ đến chính vợ con mình, cô Hợp – làm tự vệ phục vụ
chiến đấu. Ở nhà chỉ có con Việt – con gái lớn mười một tuổi cơm nước
trông em – thằng Tường bảy tuổi. Cũng mừng là hai chị em đều ngoan. Cô Hằng là
vợ của Trần Độ đang bụng mang dạ chửa gần đến ngày sinh, nhưng vẫn cùng chị em
phụ nữ áo quần nai nịt gọn gàng, suốt ngày tất bật chuẩn bị phục vụ chiến đấu.
Nhiều đồng chí khác trong cơ quan chỉ huy của mặt trận cũng hoàn cảnh như thế.
Bà con dân phố còn khổ hơn nhiều. Nhưng không một ai lo sợ, ai cũng một lòng
tin vào Cụ Hồ, tin tưởng nhất định thắng lợi.
Vương Thừa Vũ đang
suy nghĩ thì Trần Độ đến hỏi nhỏ:
- Sắp đánh nhau
đến nơi rồi. Thời hạn thi hành kỷ luật cậu cán bộ tham mưu đã hết chưa?
Vương Thừa Vũ yên
lặng, không trả lời. Trần Độ nói tiếp: - Nó nhờ mình hỏi hộ.
Vương Thừa Vũ đáp:
- Đối với anh em,
ta phải thương yêu và biết tôn trọng nhân cách của họ, đánh giá đúng khả năng
của họ, đặc biệt là người có tài và sử dụng giúp họ phát huy cái tài ấy. Nhưng
phải nghiêm khắc. Nhất định phải nghiêm khắc…
Trần Độ im lặng
lắng nghe rồi cười hề hề, tỏ vẻ hưởng ứng. Vương Thừa Vũ nói tiếp:
- Bảo cậu ấy đến
đây gặp mình.
Ít phút sau, Trần
Độ dẫn anh cán bộ tham mưu đến. Vẫn nét mặt nghiêm nghị, chỉ huy trưởng mời cán
bộ tham mưu ngồi, rồi chậm rãi hỏi:
- Bị kỷ luật như
vậy có oan không? Có tức không?
- Báo cáo, không
ạ! – Anh cán bộ tham mưu đáp. Vương Thừa
Vũ ôn tồn nói:
- Mình không cấm
cậu uống rượu, ăn thịt chó Nhật Tân; cũng không ai cấm mình ăn cánh gà luộc…
Nhưng công việc là công việc, phải nghiêm túc, phải làm thực sự, đến nơi đến
chốn. Xong việc mới được chơi. Rõ chưa?
Trần Độ nói xen
vào một câu dí dỏm:
- Ông tha cho rồi,
về làm việc. Thắng Pháp rồi, tha hồ rượu thịt chó Nhật Tân, tha hồ nghe “cô
đầu” hát.
Vương Thừa Vũ vẫn nghiêm nghị nói:
- Về vị trí làm
việc, sắp đến giờ khai hỏa. Thôi, về ngay! Kiểm tra theo dõi các phái viên đến
đơn vị chưa?
(Trích từ cuốn “Nhớ nhà văn Trần Độ”, Nxb Văn học, 2013)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét