Lên đường
Chúng tôi nhận được lệnh đi làm nhiệm vụ, tất cả phấn
khởi vô cùng. Đã gần một năm học tập, giác ngộ, nung nấu căm thù, thấy rõ rệt mục
tiêu chiến đấu, rèn luyện kỹ thuật đầy đủ.
Ảnh: Chuẩn bị viết Ký sự “Chiến thắng Điện Biên phủ” năm 1963. |
Mùa thu tới nhân dân đã tới tấp gặt hái. Các đơn vị bạn
đã chiến thắng ở Ninh Bình, diệt phỉ ở Thuận Châu, giải phóng Lai Châu mà chúng
tôi vẫn chưa đi, ai mà chả sốt ruột. Như mọi năm, trên người chúng tôi đã đủ cả
võng nguỵ trang, ống nước, túi lựu đạn, “gậy điếu”, xẻng cuốc, ít thuốc lào, gừng,
hộp dầu con hổ. Giầy mới, quần áo mới, súng đạn đủ, tất cả đều như cùng nhau nóng
ruột đi chiến đấu.
Ngoài cánh đồng lúa chín thơm
vàng ối, nhân dân tấp nập vui vẻ bàn chuyện phát động quần chúng thắng lợi,
chuyện thuế nông nghiệp, chuyện dân công. Nơi nào cũng xôn xao chuẩn bị đề
phòng địch tấn công, chuẩn bị ráo riết “phá tan kế hoạch Na Va”. Một chị trẻ tuổi ở phố T. khoe
với bạn: “Hôm qua mình được bình ở lại phố làm công tác cứu thương phối hợp
với du kích. Các cụ nhà mình cũng gọn gàng rồi. Năm nay chuẩn bị kỹ thế này thì
Na Va có 40 tiểu đoàn chứ 400 tiểu
đoàn cũng nhất định sẽ thua liểng xiểng thôi”.
Năm nay chúng tôi ai cũng chuẩn bị tư tưởng đánh về đồng
bằng. Nhưng mấy hôm học rõ tình hình địch và ta, nhận rõ chủ trương quân sự ở
trên, “địch tập trung, ta bắt địch phân tán - địch tập trung sơ hở nhiều chỗ,
ta nhè chỗ sơ hở tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch”, thế là chúng tôi nhìn về
phía dãy núi xanh xa, hiểu ngầm trong bụng, chuẩn bị cặp giò. Chúng tôi nhắc lại
“cặp giò và đôi vai” đã giúp ta thắng lớn ở Tây Bắc năm ngoái, hăm hở vác súng,
gạo lên đường.
Chúng tôi xuất quân, một đêm trăng hạ tuần tháng Mười.
Sông Hồng phủ sương mờ mờ, rộn tiếng hò của dân công. Đây dòng sông dài rộng bát
ngát một màu trắng lạnh mênh mông, dòng sông Hồng thân yêu của đất nước. Hai bên
bờ sông chiều chiều những chị gánh lúa, những em thiếu nhi đi học, các cụ già đi
chợ, bóng vui tươi nhanh nhẹn in trên nền trời phớt hồng mát dịu, vẽ nên những
hình ảnh hoà bình tha thiết. Đây những con thuyền nhấp nhô, đây những bến đò
quen thuộc. Cũng dòng sông này năm ngoái đoàn quân đã qua để đi mang lại bao cánh
đồng phì nhiêu, bao bản mường rộng lớn về với cụ Hồ, với anh bộ đội. Hôm nay lại
gặp ở đây ông lái, cái đò, ánh lửa lập loè, mái chèo đập nước, tiếng ông lái đò
đầm ấm chân thành: “Chúc các anh đi khoẻ, giết nhiều địch để cho nhân dân sung
sướng”.
Chúng tôi thoáng nhớ lại những
hình ảnh tươi sáng, những buổi chiều bên bờ sông, những chiến thắng năm ngoái,
chúng tôi thấy ông lái chúc chúng tôi và cũng là trao nhiệm vụ cho chúng tôi.
Chúng tôi thấy rạo rực trong người.
Qua sông rồi, chúng tôi lặng lẽ qua những cửa hàng cam
đỏ ối, qua những tốp dân công thắp đuốc soi vào hàng quân tìm người quen. Chúng
tôi đi mau, giữ đúng kỷ luật bí mật. Trăng mát lắm. Tôi nghĩ bụng: “Trăng này
gặt lúa và gánh thóc thuế thì tươi bao nhiêu”. Nhưng một cụ già bên cổng tre lại
nói: “Sáng trăng, các anh bộ đội hành quân mát mà được đường”.
Tiếng quần áo sột soạt, tiếng giày thình thịch, tiếng đi
rào rào, tiếng “bám sát, nhanh lên” hoà với nhau thành một tiếng động thống nhất,
hùng vĩ và nhịp nhàng đưa chúng tôi cuồn cuộn hút vào rừng sâu.
* * *
Chúng tôi chưa được ai nói cho biết đi đâu, nhưng đây
những đường lối quen thuộc, phương hướng rõ rệt quá rồi. Này con đường Thượng –
Bàng – La với cái đèo Lũng Lô năm ngoái heo hút rậm rịt. Đây cánh đồng Quang
Huy, đây đèo Phiềng Bạn, bến Tạ Khoa, năm ngoái còn gồ ghề, khúc khuỷu. Nhưng năm
nay chúng tôi đã đặt chân trên con đường hàng trăm cây số rải đá nhẵn phẳng, dài
rộng vàng rực như nằm cười dưới ánh trăng. Chúng tôi đi lấp kín đường vun vút, ào
ào, chen chen với hàng chục cái ô tô gù gù, ình ịch, nghênh ngang, bụi mù mịt rất
đáng yêu nhưng lại vừa hơi ghét vì nó cứ làm chúng tôi phải tránh luôn.
Công binh vọt lên trước bắc cầu, cầu vừa xong bộ đội vừa
tới. Chúng tôi tràn qua sông Đà, dưới tiếng gầm gừ của máy bay đêm của địch. Chúng
tôi đã cảm thấy cái run sợ của địch ở Điện Biên Phủ, vì chúng tôi vừa được phổ
biến tin Quân giải phóng Lào đại thắng ở Thà Khẹt.
Điện Biên Phủ, một tập đoàn cứ điểm 9 tiểu đoàn, nhưng
có thể còn tăng, nằm chơ vơ như một hòn đảo ở giữa một bể rộng bao la rừng núi
của Tây Bắc giải phóng. Thế là địch bắt đầu phân tán và đã ở vào một tình thế bị
động đối phó nhiều mặt. Chúng tôi càng nô nức. Có đồng chí chỉ lo đơn vị bạn đánh
trước hết mất thôi. Phải giục nhau đi nhanh lên. Cuộc hành quân của chúng tôi kéo
dài hơn 400 cây số, đi mười lăm đêm liền. Trên đã rõ cuộc hành quân phải “ăn tốt,
ngủ tốt, đi tốt, học tốt, đến nơi quân số, vũ khí đầy đủ”. Anh em thi đua để giật
giải thưởng một con bò của đại đoàn tặng cho đơn vị nào hành quân giỏi nhất.
* * *
Úi chà, cứ đi và cứ nhìn những việc trong khi đi cũng
thấy chiến dịch to lớn thế nào và đã phấn khởi càng phấn khởi thêm.
Anh chị em dân công hò:
“Trèo đèo mới biết đèo cao,
Có đi phục vụ mới biết công lao anh vệ quốc đoàn”.
Nhưng chúng tôi đi con đường mới số 15 thì chúng tôi lại
thấy:
“Đố ai đếm được sao trời,
Đố ai tính được sức người dân công”.
Đường to lớn hơn cả đường số 2, có những đèo toàn đá
phải đào vào núi, những thành vại cao hàng mười thước toàn đá. Chúng tôi nghĩ:
Sức người thật là lấp biển vá trời. Nếu những sức lực này được yên ổn tổ chức
nhau lại thì cuộc đời sẽ hạnh phúc bao nhiêu!
Máy bay địch luôn luôn ném bom những đèo Lũng Lô, đèo
Phiềng Bạn và đèo Bản Pẹ. Nhưng dân công thường trực đã sẵn sàng. Hôm nay chúng
tôi qua đèo Lũng Lô. Từ xa chúng tôi đã thấy một quãng đèo dài gần hai cây số gập
làm bốn khúc trên sườn núi bị hàng trăm quả bom phá sạt đi. Hàng đoàn ô tô đang
chờ. Trên cả một khoảng như thế hàng trăm bó đuốc sáng rực như buổi mít tinh sắp
họp, anh chị em dân công kẻ cuốc, người xúc tấp nập và tưng bừng như ngày mùa.
Má anh nào cũng đỏ hồng, mắt chị nào cũng sáng long lanh: tay chân các anh, các
chị thật dẻo và nhịp nhàng. Tôi thấy một anh vừa cầm đuốc vừa kể chuyện tinh thần
của liệt sĩ Hoàng Văn Thụ, một chị vừa cuốc đất vừa chỉ vào chúng tôi nói với các
bạn: “Này trông các anh ấy mang nặng như thế này, đi suốt đêm chưa biết ngủ đâu,
chúng ta phải tích cực làm nhiều nữa đi”. Chúng tôi đi qua, mỗi người nói một câu,
các chị tranh nhau đối đáp; không khí rộn ràng hẳn lên. Ánh đuốc vẫn sáng rực
như bốc mãi không khí tưng bừng thi đua kháng chiến. Qua Bản Pẹ vừa buổi chiều địch
ném bom, chập tối đã thấy từ các làng, các bản, các chị, các bà, các em nhi đồng
tấp nập vác cuốc ra cùng công binh sửa chữa ngay cho ô tô kịp chạy. Các chị Thái mặc áo chàm, váy dài, rất hồn
hậu, khi thấy ngựa bộ đội đi qua, các chị vừa cười vừa nói: “Ồ con bò đẹp quá!”, rồi các chị xì xì cho nó chạy và cười ầm lên, tiếng cười lanh lảnh va vào
vách núi làm tươi cả núi rừng.
Chúng tôi còn được nghe chuyện anh em công binh suốt mùa
hè không nghỉ để mở con đường thắng lợi này. Có đồng chí công binh chui xuống hố
bom nổ chậm để tháo bom. Có chị dân công tên là Xuân, giữa khu vực nhiều bom nổ
chậm, bị bom nổ vật ngã, còn anh dũng bình tĩnh giữ của công, cứu các bạn và động
viên các bạn.
Bộ binh đi chen với pháo binh.
Trên đường rộng hai hàng bộ binh đi hai bên. Thỉnh thoảng hàng ba, bốn con ngựa
của các ban chỉ huy lộp cộp lướt qua rầm rập, anh em chiến sĩ hoan hô và bảo
nhau “giống như phim Nam chinh Bắc chiến”. Gặp pháo binh,
bộ binh càng phấn khởi. Các chiến sĩ hay tò mò, lợi dụng những lúc xe lên dốc
khó lên, không cần chờ lệnh, các đồng chí xổ vào, hò nhau đẩy hộ, nhân tiện sờ
xem cỗ súng nó thế nào. Có đồng chí khi trú quân, ở gần chỗ pháo binh là tìm
cách lần đến gần chỗ pháo binh tán chuyện để biết thêm về pháo binh. Khi về đơn
vị lại khe khẽ thuyết trình lại một hồi. “Xe mẹ kéo xe con”, đó là tên gọi trìu
mến của bộ binh gọi những cỗ pháo.
Cả một lực lượng vĩ đại đang dồn ra tiền tuyến. Xe ô tô,
xe đạp, gánh, vác, cuồn cuộn, cuồn cuộn như những lớp sóng dồn dập.
Mười lăm ngày qua rất nhanh ; con rắn người khổng lồ đã
chun lại cuộn tròn trong rừng xanh bát ngát gần Điện Biên Phủ, nằm chờ lệnh.
Vài nét về Tây Bắc giải phóng
Phải qua những ngày đi thẳng cẳng, hết sông này núi nọ,
hết đèo ngược dốc xuôi mới thấy được Tây Bắc bao la, rộng rãi, phì nhiêu vô cùng,
mới thấy được chiến thắng Tây Bắc năm ngoái thật vĩ đại.
Ngoài những cánh đồng lớn có tiếng như Điện Biên, Nghĩa
Lộ, Quang Huy ra, Tây Bắc còn có hàng trăm thung lũng nhỏ, rộng hàng năm mười mẫu,
một trăm mẫu hoặc hơn nữa ở rải rác khắp nơi. Ở xa nghe nói Tây Bắc âm u, ta e
có nhiều ấn tượng sai lầm. Thật ra ở đây có dòng sông Đà nước chảy xiết, nhiều
thác ghềnh với những dải ruộng, những nếp nhà rất đẹp hai bên bờ chạy suốt từ Lai Châu đến Hoà Bình. Những bãi cát
trắng, những cồn đá biếc, những ngọn đồi xanh, những con trâu hiền lành gặm cỏ,
những chị phụ nữ hay cười, những buổi chiều ánh nắng loang trên sông, mặt sông
soi rõ mây hồng, rõ bóng chim bay nhẹ là những cảnh cực kỳ tươi đẹp và hồn hậu
của đất Tây Bắc. Lại còn những làng Mèo cao tít với những vườn rau cải, vườn
thuốc phiện cô đơn nhưng xanh tốt luôn ẩn mình trong sương, trong mây. Lại còn
con đường 41 với Mộc Châu, Yên Châu, Thuận Châu, Tuần Giáo, những cánh đồng
phẳng tươi cười nép dưới những chân núi đá hùng vĩ ; những hàng cây xanh mát,
những mặt hồ trong phẳng đầy ngỗng, vịt, chung quanh có hoa dâm bụt.
Non sông! Càng đi càng thấy hai chữ ấy có ý nghĩa, càng
thấy thế nào là yêu nước, càng thấy thế nào là bảo vệ hoà bình. Càng thấy những
cảnh thanh bình tha thiết, những chiều bên sông, ven suối, ven đồi, càng thắt
ruột trước những cảnh đốt nhà mà quân xâm lược đã reo rắc, những cột nhà cháy đen,
ngơ ngác, trơ trụi như luôn luôn nhắc nhở, đòi hỏi một sự đền bồi.
Năm nay qua Tây Bắc, chúng tôi thấy được nhiều nỗi vui
mừng, phấn khởi trong lòng. Chúng tôi lại càng nô nức lập công. Tôi đã qua nhiều
làng bản ven sông Đà và vùng giữa sông Đà với Thuận Châu. Ở đâu tôi cũng được gặp
những người dân hồn hậu và hăng hái kháng chiến. Từ ngày giải phóng, Chính phủ
ta đã thật sự săn sóc đến đời sống của nhân dân. Ở những nơi hẻo lánh nhất như
Tạ Khoa, Tạ Bú, Ít Oong, v.v… cũng có cửa hàng Mậu dịch bán lưỡi cày, dao, cuốc,
muối, vải cho dân. Nhân dân rất thích đi đến Mậu dịch. Tôi đã gặp nhiều trẻ em
mặc vải hoa Trung Quốc. Nhân dân không lo thiếu muối nữa.
Hôm chúng tôi trú quân ở bản Pa Ngà, ông trưởng thôn tên
là Cự, ngoài ba mươi tuổi, có một vợ và hai con nhỏ. Bà vợ không biết tiếng
Kinh chỉ nhìn chúng tôi cười và luôn luôn chờ đợi xem chúng tôi cần gì là lấy
ngay, khi thì cái điếu cày, chén nước, khi thì cái ghế, cái chiếu. Ông Cự tự
tay đi lấy dưa chua mời chúng tôi “kin sủm” (nghĩa là ăn chua) rồi rất vui vẻ cố
gắng nói chuyện bằng tiếng Kinh với chúng tôi.
“Tôi chính quê ở Vạn Yên đây. Bố tôi nghèo lắm, lên đây
làm thuê lấy mẹ tôi ở đây. Tôi chỉ có một mình không có anh em gì cả. Tôi cũng
nghèo phải đi làm thuê. Tôi ghét Tây lắm, trước tôi vẫn giúp cán bộ và bộ đội và
làm liên lạc cho uỷ ban xã. Sau khi giải phóng, cán bộ bảo tôi làm việc. Tôi không
thích làm và sợ không làm nổi. Sau cán bộ bảo Chính phủ ta là Chính phủ của dân,
đồng chí là người nghèo mới biết cái khổ của người nghèo, đồng chí ra làm việc
thì có lợi cho dân. Tôi nghe thấy phải, tôi làm việc. Xóm tôi thi đua đóng thuế
nông nghiệp được nhất đấy… mà Chính phủ săn sóc đến nhân dân thật. Xóm tôi thiếu
trâu, Chính phủ cho mượn ngay hai con trâu. Thế là bây giờ đủ làm. Thiếu gì, đã
có Mậu dịch. Chúng tôi đang đào mương làm chiêm. Chả bù cho thằng Tây trước kia
có con trâu nào nó bắt hết. Nó về làng thì đàn bà, con gái chạy cho xa. Bây giờ
bộ đội với dân như anh em, thích thật”.
Suốt mấy ngày dọc đường, chúng tôi gặp nhiều thanh niên,
phụ nữ và bà già, người thì đeo, người thì gánh, tốp ngược tốp xuôi; khi thì gặp
họ đang ngồi nghỉ ăn cơm xôi, khi thì gặp họ đang thắp đuốc leo dốc. Lần nào gặp,
các anh, các chị cũng tươi cười nói với chúng tôi: “Hoan hô bộ đội! Súm khỏi
hám khẩu hụ bộ đội kin, bộ đội khả Tây nớ” (Chúng tôi gánh gạo cho bộ đội ăn để
bộ đội giết Tây). Tiếng các anh thì hăm hở tiếng các chị thì thánh thót hay kéo
dài một cách rất ân cần, đằm thắm.
Một hôm chúng tôi tới bản Nà Sen trú quân, chập tối chúng
tôi mới tới bản. Tất cả dân bản kéo ra đầy đường ríu rít nói tiếng Thái lôi kéo
chúng tôi vào nhà. Ông trưởng thôn phải ra chia cho từng nhà, nhà thì năm người,
nhà ba người. Các anh thanh niên cứ líu tíu chạy hết nhà này sang nhà khác nói
chuyện. Tôi vào nhà ông trưởng thôn. Vừa ngồi chưa kịp uống nước, ông đã vào buồng
lấy một bức ảnh Hồ Chủ tịch ra khoe với chúng tôi, ông treo lên cao rồi vui cười
nói: “Hoan hô! Cảm ơn! Po me (bố mẹ) đây! Cảm ơn! Cụ Hồ muôn năm!”. Một ông
khác tỏ vẻ bực dọc: “Nhà mình chưa có ảnh Cụ Hồ. Có ảnh Cụ như có bố mẹ trong
nhà. Mình đi tăng gia về trông thấy ảnh là thấy bụng no vui”.
Ở một nhà bên cạnh, mấy đồng chí lấy sáo ra thổi bài “Đoàn
kết”, các em thiếu nhi tập hợp rất đông và cùng đồng thanh hát bài “Đoàn kết”.
Mấy bà cụ già cứ bịn rịn bên cạnh vừa cười mà lại vừa như rưng rưng nước mắt. Các
cụ cứ giơ tay lên trời vái “Muôn lai! Bộ đội muôn lai!” (Bộ đội tốt lắm!)…
và các cụ nói nhiều câu nữa không ai hiểu, có lúc các cụ lại giơ tay lên mặt làm
dáng điệu gạt nước mắt. Về sau chúng tôi mới hiểu các cụ bảo: “Bây giờ bộ đội
về vui lắm ai cũng cười, như con trong nhà ấy! Ngày xưa Tây nó về thì chỉ có
khóc thôi”.
Chúng tôi qua đâu cũng có một không khí cảm động tương
tự hoặc được nghe những lời lẽ chân thành hoặc được thấy những cặp mắt đầy tin
tưởng, thân yêu.
Tinh thần hăng hái đóng góp cho kháng chiến của đồng bào
Tây Bắc rất cao. Riêng khu Tuần Giáo là nơi vừa giải phóng, uỷ ban cung cấp mặt
trận không đặt kế hoạch huy động gạo mà nhân dân tự động cho Chính phủ vay gần
một nghìn tấn gạo. Một huyện ở Lai Châu vừa được giải phóng cũng góp hơn năm trăm
tấn gạo. Chúng tôi sống ở mặt trận hàng mấy vạn con người mà được ăn gạo nếp của
đồng bào Tây Bắc hàng hơn hai tháng trời.
Mấy hôm Tết, đồng bào Lai Châu mới được giải phóng cử
một đoàn đại biểu hơn hai mươi người đi uỷ lạo bộ đội ở ngoài mặt trận. Khi gặp
đoàn đại biểu, chúng tôi được gặp ba đồng chí du kích Mèo rất trẻ đã chiến đấu
với quân Pháp mấy năm trời lập nhiều thành tích; gặp những cán bộ đã từng lăn
lộn trong rừng hàng sáu bảy năm nay, gặp những chị phụ nữ rất hiền hậu và rất tươi
vui.
Đoàn đại biểu đến thăm một đơn vị bộ đội làm đường sát
mặt trận. Bộ đội đang làm đường vứt cuốc xẻng chạy ồ ra quây lấy đoàn đại biểu
vừa hoan hô, vừa hát mừng. Nhiều anh em xô đến ba đồng chí du kích Mèo, ôm lấy,
tháo những huy hiệu ở ngực ra tranh nhau gắn tặng vào ngực các đồng chí. Mấy chị
quân y và văn công ra nắm tay các chị người Thái, người Mèo. Các chị Mèo tháo vòng
bạc ở tay ra tặng lại các chị bộ đội. Các anh, các chị chỉ nắm tay, bá vai nhìn
nhau cười không biết nói, nhưng ai cũng thông cảm một mối tình chiến đấu nồng
nhiệt, sâu sắc.
Tối đến là một buổi liên hoan, các chị trong đoàn đại
biểu ra tố cáo tội ác của quân Pháp. Một chị là uỷ viên kháng chiến một xã ra kể
nỗi vui mừng khi giải phóng, chị có nói: “Trước đây một người, chả ai dám ra đường.
Bây giờ tha hồ đi, chẳng những không sợ gì mà có gì khó khăn lại có người giúp đỡ.
Bộ đội tốt quá. Trước đây phụ nữ chỉ chạy giặc khốn khổ, bây giờ lại được làm
việc ở uỷ ban”.
Bộ đội hát, nhảy, hò. Các chị cũng ra nhảy xoè đi chợ,
xoè nhặt rau, hàng hơn ba mươi điệu xoè diễn tả cảnh sống chất phác, thanh bình
và vui tươi của nhân dân Tây Bắc. Dưới ánh lửa hồng rung rinh, các chị áo trắng
chẽn, váy đen dài, thắt lưng xanh, sung sướng biểu diễn trong tiếng đàn rất êm
nhưng văng vẳng như một thứ tiếng núi rừng huyền bí. Sau cùng các chị mời bộ đội
cùng xoè đoàn kết chung quanh đống lửa liên hoan.
Rồi đây những mái nhà mới, con đường mới, cách làm ăn
mới sẽ đến với nhân dân Tây Bắc.
Cuộc chiến đấu gian khổ này sẽ đổi lấy một cuộc sống đầy
hạnh phúc. Đất nước của chúng ta thân yêu bao nhiêu!
Chúng tôi đi vào cuộc chiến đấu với tất cả một chí căm
thù sâu sắc, nhưng cùng với cả một niềm tin tưởng không bờ bến với cả hình ảnh
tương lai tươi thắm trong lòng.
Điện Biên Phủ
Điện Biên Phủ là một cánh đồng rộng lớn dài hơn mười cây
số, rộng có chỗ ba, bốn cây, có chỗ năm sáu cây số. Cánh đồng hình thành một cái
lòng chảo khổng lồ, nằm gọn giữa những dãy núi rất cao mà chân núi là những quả
đồi bò xoài ra thấp dần cho đến cánh đồng.
Trung tâm cánh đồng là Mường Thanh rất lớn (cũng vì vậy
người ta gọi cánh đồng là cánh đồng Mường Thanh). Từ Đông Bắc vào tới Mường
Thanh là con đường số 41 đi từ Tuần Giáo vào qua làng Him Lom. Con đường từ Mường
Thanh thẳng xuống phía Nam qua Hồng Cúm để tiếp tế với một con đường nhỏ sang Lào.
Song song với con đường là dòng suối Nậm Rôm ngòng nghèo chảy ầm ỹ. Từ phía Mường
Thanh còn có một con đường đi thẳng lên phía Bắc để tới Lai Châu. Cánh đồng Mường
Thanh phẳng lỳ xa tắp. Suốt ngày có sương lam bao phủ. Rừng chung quanh Mường
toàn là rừng già. Mùa xuân có những cây Bo bàn nở hoa trắng xoá, trang điểm khắp
rừng, đàn chim ríu ra ríu rít tìm nhau.
Địch đóng ở đây lúc đầu là 12 tiểu đoàn bộ binh cùng với
không quân, pháo binh, cơ giới, ước chừng một vạn người. Chúng đóng làm ba khu: khu Bắc, khu trung tâm và khu Nam. Khu Bắc gồm đồn Him Lom, đồi Độc Lập (mỗi quả đồi nằm
độc lập giữa đường đi Lai Châu) và đồn Bản Kéo. Binh lực mỗi nơi có một tiểu đoàn
tinh nhuệ.
Khu trung tâm gồm hai phân khu: phân khu Đông và phân
khu Tây. Phân khu Đông gồm một số đại đội từ số 1 đến số 5 bọc ôm lấy phía Đông
suối Nậm Rôm. Phân khu Tây gồm trên ba chục cứ điểm ôm lấy chỉ huy sở và sân
bay trung tâm của chúng.
Xa xa về phía Nam cách khu Mường Thanh năm cây số
là khu Hang Cúm cũng gồm hơn hai chục cứ điểm quây quần lấy nhau và cũng có một
sân bay.
Trọng pháo 105, 155 ly và súng cối 120 ly, chúng đặt ở
Hang Cúm bắn che chở cho Mường Thanh, đặt ở Mường Thanh che chở cho khu Bắc, đặt
ở đồi Độc Lập bắn chặn ta ở đường 41 và đường cái đi Lai Châu.
Bọn chỉ huy Pháp, có nhiều tên tướng Mỹ làm thày, cho
là Điện Biên Phủ rất mạnh, ta không thể đánh được vì:
a) Chúng có binh lực nhiều lại có nhiều trung tâm chống
cự rất mạnh (ba khu lớn) liên hoàn che chở cho nhau,
b) Chúng có sân bay (hai sân bay) và có máy bay trinh
sát và máy bay khu trục ngay tại chỗ, có thể quan sát và công kích ta rất hiệu
nghiệm,
c) Có một đội trọng pháo mạnh (gồm hai tiểu đoàn và hàng
hai chục khẩu 120 ly, lại có bốn khẩu 155 ly). Chúng cho rằng có thể tiêu diệt
pháo của ta một cách dễ dàng,
d) Có một đội cơ giới tương đối mạnh, hoạt động thuận
tiện vì ở Mường Thanh cũng không khác gì ở đồng bằng.
Chúng vẫn chủ quan tính toán rằng ta không thể đủ sức để
tấn công vào một tập đoàn cứ điểm mạnh như thế. Chúng cho ta không đủ điều kiện
tiếp tế lương thực, đạn dược để đánh lâu được, ta không có nhiều trọng pháo và
cao xạ hoặc có thì chưa dùng thạo được, bộ đội ta chưa đủ sức đánh tập đoàn cứ điểm
mạnh, v.v… Chúng công khai tuyên bố Điện Biên Phủ là một “chiến luỹ bất khả xâm
phạm”.
Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ nhằm thực hiện một kế
hoạch rất mạo hiểm và thâm độc, kế hoạch ấy nằm trong âm mưu 18 tháng của Na Va
do Mỹ trực tiếp giúp đỡ và bày mưu tính kế hòng do kế hoạch ấy mà xoay chuyển tình
thế quân sự của chúng ở Đông Dương. Chúng định dùng Điện Biên Phủ làm một cái cầu,
Điện Biên Phủ sẽ có tác dụng bảo vệ cho Lai Châu là một nơi còn lại cuối cùng của
cả miền Tây Bắc ta vừa mới giải phóng năm 1952. Sau đó chúng sẽ từ ở Lu-ăng Pơ-ra-băng
(Thượng Lào) mở đường thẳng qua Điện Biên Phủ, đánh ra Tuần Giáo. Đồng thời nhảy
dù lấy lại Nà Sản, chiếm lại Sơn La. Sau đó chúng sẽ từ nhiều mặt tiến ra phía
sông Đà, tràn qua sông Đà lấy lại Nghĩa Lộ, Quang Huy là những nơi mà chúng đã
bị thua nhục nhã. Trong khi ấy, chúng đã tập trung quân đánh rộng ra vùng tự do
Liên khu 5 của ta và chúng âm mưu sau khi “bình định” xong Liên khu 5, chúng sẽ
tập trung quân ở đồng bằng Bắc Bộ đánh ra Thái Nguyên, Phú Thọ phối hợp với những
cánh quân ở Tây Bắc đánh xuống và như thế từ hai mặt ép lại, chúng sẽ tiêu diệt
chủ lực ta, chiếm lấy phần lớn Việt Bắc và Tây Bắc đi tới “bình định” toàn bộ nước
ta!
Chúng vừa nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, lại tập trung
quân đánh Tuy Hoà (Liên khu 5) và thực hiện trong những bước đầu của kế hoạch đó.
Nhưng chúng đã không tính đến lực lượng của nhân dân và quân đội ta lớn mạnh, chúng
cũng mù quáng không tính đến sự chỉ đạo sáng suốt và tài tình của Hồ Chủ tịch và
của Đảng ta. Chính trong lúc chúng hung hăng đánh ra tây nam Ninh Bình để hòng
thu hút chủ lực của ta, đề phòng cuộc tấn công thu đông của ta, chúng ra sức tập
trung binh lực và ráo riết tăng viện ở Pháp sang là lúc Hồ Chủ tịch, Đảng, Chính
phủ và Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho quân đội nắm vững phương châm tiêu diệt sinh
lực địch là chính, phải cơ động, linh hoạt, tập trung binh lực đánh vào chỗ yếu
của địch.
Theo dõi những cuộc tấn công lên Lai Châu phối hợp với
cuộc tấn công của quân giải phóng Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Trung Lào, cuộc tấn công ở Lu-ăng Pờ-ra-băng làm
cho địch muốn tập trung cao độ thì trái lại phải phân tán đến cao độ, định đánh
Liên khu 5 và Tây Bắc thì phải xoay ra giữ Trung Lào và Thượng Lào, định lấy Điện
Biên Phủ làm nơi tấn công thì phải quay ra giữ Điện Biên Phủ trong thế bị bao vây
bị động nguy hiểm. Khi ấy du kích Nam bộ và đồng bằng Bắc bộ, nhân lúc địch phân tán lại hoạt
động rất mạnh và đều. Ở Bắc Bắc bộ, đường số 5 bị uy hiếp, cắt đứt luôn. Ở Nam bộ, tháp canh rụng hàng trăm, …
Điện Biên Phủ là cái nút quan trọng của toàn bộ kế hoạch
Na-va, bước đầu của kế hoạch Na-va đã bị thất bại. Phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ để phá tan kế hoạch Na-va tức là kế hoạch kéo dài và mở rộng chiến
tranh Đông Dương của đế quốc Mỹ và thực dân hiếu chiến Pháp. Phải tiêu diệt tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để xây dựng bộ đội ta lớn mạnh lên từ chỗ đánh tập
trung chưa lớn lắm đến đánh tập trung nhiều lực lượng và phối hợp nhiều binh chủng,
từ chỗ đánh những đồn chưa lớn lắm đến chỗ tấn công cả một tập đoàn cứ điểm mạnh
nhất có hàng vạn quân của địch. Phải tiêu diệt Điện Biên Phủ để giải phóng hoàn
toàn Tây Bắc, để phối hợp với mặt trận ngoại giao sắp bắt đầu ở Giơ-ne-vơ.
Quyết tâm đã hạ.
Khắp Tây Bắc rạo rực lên một sự hoạt động tưng bừng.
Trên khắp các đèo, các lũng nhân dân tấp nập hướng về Điện Biên Phủ chở rau, thịt,
gạo. Từ khắp miền tự do Việt Bắc và đồng bằng, Liên khu 4, hàng đoàn dân công
khổng lồ, từng đoàn xe nối đuôi nhau cuốn về Điện Biên Phủ, hàng nghìn bức thư động
viên, khuyến khích bay về Điện Biên Phủ.
Toàn quốc hướng về Điện Biên Phủ.
Nhân dân thế giới cũng theo dõi Điện Biên Phủ.
Kẻ địch lại càng đứng ngồi không yên ở Điện Biên Phủ.
Những cuộc chiến đấu gian khổ
(Kéo pháo – làm đường - khắc phục khó khăn)
Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch đầu tiên ta dùng
trọng pháo 105 ly và có cao xạ pháo phối hợp. Muốn đưa những cỗ súng đó đến chỗ
bắn được vào đồn địch không phải là chuyện dễ. Mỗi cỗ nặng hơn hai tấn, khi đi đường
cái thường dùng xe kéo, đưa nó vào núi không thể tháo ra khiêng được, xe không đi
được thì phải dùng người kéo. Chỉ có một đường cái vào Mường Thanh là đường 41
lại có đồn Him Lom to tướng án ngữ. Ta khắc phục khó khăn bằng cách đánh đường
núi. Ta đánh một con đường dài mười hai cây số leo ba cái dốc dựng ngược và một
con đường độ mười cây số nữa vừa khít cho hai bánh xe, đặt chệch một chút là cỗ
pháo có thể lăn xuống vực sâu. Đường đất mới đánh lầy đến mắt cá chân. Chúng tôi
lấy sức người thay xe kéo pháo vào trận địa.
Khi chúng tôi đã thức ròng rã bảy đêm liền, ra sức kéo
được tất cả pháo nặng hàng trăm tấn thép ấy vào qua được một quãng đường mười
hai cây số gay go thì vì có sự thay đổi cần thiết lại được lệnh kéo pháo ra. Địch
đã chú ý đề phòng, chúng củng cố công sự và các sân bay nhiều hơn. Trung ương Đảng
và bộ Tổng tư lệnh đề ra phương châm “đánh chắc, tiến chắc”. Vì vậy việc gì cũng
phải chuẩn bị chu đáo, kỹ càng, tạo mọi điều kiện thuận lợi đánh được lâu và cơ
động, linh hoạt. Thế là chúng tôi bắt đầu một công trình chuẩn bị lâu dài. Và cũng
vì thế hai tiếng “kéo pháo” sau này trở thành hai tiếng có nhiều kỷ niệm sâu xa
nhất trong chiến dịch của chúng tôi. Thật ra đó cũng là một công trình hiếm có.
Trên con đường dài mười hai cây số toàn dốc ngược ấy, sức lao động của con người
đã kéo băng hàng trăm tấn thép qua, nay lại kéo hàng trăm tấn thép ấy trở lại. Đây
không phải là “kéo” một cách giản đơn mà là một cuộc chiến đấu, chiến đấu với máy
bay, pháo binh của địch, với những khó khăn nguy hiểm chết người, chiến đấu với
những gian khổ: cơm không thức ăn, bữa sống bữa khê, hơn hai mươi ngày đêm không
ngủ. Một cuộc chiến đấu hết sức quyết liệt và lặng lẽ.
Cứ chiều chiều khi sương lạnh trắng tụ trên các núi sa
xuống các cánh đồng từng đoàn người mắt còn ngái ngủ, đôn đốc nhau tấp nập kéo
ra đường. Một lát sau, trên khắp dọc đường từng cỗ pháo bắt đầu hoạt động. Khi
lên dốc, hàng trăm người lên gân bò rạp đằng trước khẩu pháo, bám lấy những dây
dài để kéo pháo lên từng nấc một. Trên đỉnh dốc, một cái trục đang kẽo kẹt giúp
người quay từng nấc, giữ cho pháo khỏi tụt. Đồng chí pháo binh tay nắm lấy càng
pháo luôn luôn mắm môi mắm lợi chăm chú hết tinh thần lay đi lay lại cho pháo đi
mà không sa hố. Cứ như thế từng tiếng “hai, ba, …” khàn khàn nhưng khẩn trương
làm nhịp cho khẩu pháo nặng nề nhích từng tý. Khi xuống dốc tình thế còn gay go
hơn nhiều. Cảnh tượng trái lại: hàng trăm người bám vào những dây dài đàng
sau, ngửa hẳn người ra, cố sức, ghì giữ theo nhịp với trục quay và thả từng tý
dây một. Pháo đã nặng, khi nó xuống dốc, nó càng nặng, đường lại quanh co. Vừa
dây trục vừa sức người giữ vẫn chưa yên, còn phải có người chèn bánh cho chắc từng
bước, người lái pháo càng phải chăm chú tinh thần. Các đồng chí pháo binh thì lái
pháo, chèn pháo, bộ binh ra tay kéo dây, quay trục.
Con đường kéo pháo này phải nguỵ trang rất kỹ suốt hơn
mười cây số, nhưng vì nguỵ trang đã lâu quá, cây lá khô đi ngổn ngang, bừa bãi,
lại thêm người đi lại như phá suốt ngày đêm. Địch bắt đầu chú ý. Ngày thì “bà
già” vè vè soi luôn, khu trục ném bom, bắn phá, đêm đến lại đại bác địch bắn liên
hồi. Đêm đêm, hàng trăm người lại xúm vào một chỗ như thế, một quả pháo nổ trúng
có thể bị thương nhiều. Nhưng khẩu hiệu đề ra “Thà chết không để pháo rơi, pháo
hỏng”, nên mỗi lần tiếng đại bác địch từ xa “bình bình” nổ rồi chớp loé mảnh đạn
văng rào rào, cây gãy răng rắc, đoàn người anh dũng chỉ mất mấy giây nằm rạp xuống
tay toé máu cũng không rời dây pháo, xong lại tiếp tục ngay “Hai! … ba! … này! …”.
Đã có những đồng chí bị thương nặng, tay cứ cầm chặt dây
pháo cho đến khi có người thay. Nằm lên cáng tải thương còn quay đầu lại, bình
tĩnh hẹn hò “Tiếc quá, tôi chưa được chiến đấu! Các đồng chí ở lại hoàn thành
nhiệm vụ để trả thù cho tôi”. Có những lúc dây đứt, xe pháo lao đi, đồng chí chèn
không kịp chèn nữa. Đồng chí Tô Bình Diện, xứng danh là anh hùng Điện Biên Phủ,
đã lao cả người nằm chèn dưới bánh xe, hy sinh anh dũng ở đó để giữ lấy cỗ pháo
trên đường. Đồng chí Trọng đang cùng đồng đội ghì dây thả pháo xuống dốc, một
quả pháo địch nổ ngay trong hàng quân, đồng chí Trọng đã cuốn luôn dây pháo vào
người nằm bám chặt lấy đất và cây để giữ pháo. Hành động gương mẫu ấy đã lôi cuốn
toàn đội cố gắng giữ được khẩu pháo lại.
Có những lúc giữa ban ngày, máy bay gầm thét, thả bom
cháy chung quanh pháo, nhiều đồng chí đã xông vào lửa dùng áo, dùng cành cây gỡ
cho pháo khỏi cháy, kéo pháo đi nơi khác dưới làn mưa đạn của máy bay địch.
Suốt đêm cứ vật lộn với dây trục, dốc và đại bác địch
như thế, mỗi khẩu pháo có đêm chỉ nhích được độ một cây số hay năm trăm thước.
Sáng rõ mỗi người lại phải đi lấy lá nguỵ trang che kín đường, che kín pháo. Đến
tám, chín giờ mới lục tục về chỗ trú quân, mỗi người nằm co vào một công sự cá
nhân của mình, nghỉ ngơi, nhưng chỉ ngủ gà ngủ vịt được một ít vì máy bay địch
không để cho lúc nào yên được quá năm phút. Bốn giờ chiều từng đơn vị lại phải
dàn ra mặt đường. Những ngày đó mỗi người mỗi bữa một nắm xôi, nhưng vì địa
điểm cấp dưỡng luôn luôn di chuyển lại thêm dưới máy bay và trọng pháo của
địch, cấp dưỡng hoạt động rất khó khăn, nên cơm ăn rất bất thường.
Ban chỉ huy các cấp lại càng vất vả, bao nhiêu dây nói
căng ra đường hết. Tất cả các cán bộ đều có mặt trên đường. Động viên, tổ chức,
điều khiển, báo cáo, cùng kéo với chiến sĩ… Xong trận kéo pháo nhiều đồng chí
cán bộ già đi đến vài năm: râu dài ra, mắt trũng xuống, tiếng nói khàn khàn.
Sau hơn nửa tháng gay go như thế, tất cả các đơn vị pháo
binh đều toàn vẹn. Người bị thương và hy sinh rất ít. Ai cũng kiêu hãnh và phấn
khởi đã thắng trận đầu thần diệu: ta đã tập trung hàng nghìn người, kéo hàng
trăm tấn thép vào rồi lại ra ngay trước mũi địch. Địch đã dùng hàng trăm pháo đạn,
hàng trăm tấn bom mà kết quả ta vẫn yên ổn, bình tĩnh tiếp tục công việc chuẩn
bị của ta. Ta vẫn ngang nhiên trong thế chủ động tấn công. Mỗi con người qua rèn
luyện thấy rắn rỏi hơn. Lòng tin vào thắng lợi cuối cùng càng thêm vững chắc.
Sau kéo pháo, chúng tôi được nghỉ vài hôm ăn Tết. Gọi
là ăn Tết cho sang chứ thật ra chỉ thêm vài điếu thuốc lào, một bữa thịt và một
buổi nói chuyện. Sung sướng nhất của chúng tôi là được đọc thơ chúc Tết của Bác
Hồ. Tâm trí mọi người ít nghĩ đến chuyện Tết, nó còn vương vấn “chiến dịch vĩ đại, có tác dụng đẩy mạnh kháng chiến, đảm bảo cải
cách ruộng đất thắng lợi! Phải làm sao cho chiến dịch toàn thắng!”.
Đại đoàn chúng tôi nhận được lệnh làm đường. Chúng tôi
chịu trách nhiệm làm gần ba mươi cây số đường gồm ba con đường ba phía khác
nhau (đường số 2, số 3 và số 6). Đó là một kỷ niệm rất vinh dự nữa của chúng tôi.
Chúng tôi vừa học lao động là vinh quang, lao động sáng tạo thế giới. Lao động ở
đây nhằm mục đích tiêu diệt kẻ thù, xây dựng một cuộc đời mới. Ý nghĩa lao động
ở đây có giá trị rất lớn. Qua thời gian làm đường này chúng tôi lại cảm thấy điều
đó sâu sắc và thấm thía hơn nhiều. Chúng tôi lại dàn ra khắp các mỏm núi chung
quanh cánh đồng Điện Biên Phủ. Chúng tôi chia khu vực, tổ chức lực lượng, động
viên đầy đủ, khắc phục khó khăn và tổ chức sinh hoạt cho chiến sĩ. Phải làm thế
nào không cưa mà hạ cây cổ thụ, không mìn mà phá được đá xanh. Phải làm sao khi
làm có nước uống có chỗ hút thuốc chung kín đáo, điếu ngon, không bị lộ bí mật,
không lộn xộn.
Bắt tay vào việc, chúng tôi càng thấy khó khăn cụ thể
càng nhiều, không có xẻng to, không có cưa to, không có choòng và xà beng, không
rìu, không búa, v.v… Chúng tôi lại còn phải lấp những quãng suối dài hàng bốn,
năm mươi thước, phải đục những thành núi cao bảy, tám thước, phải hạ hàng trăm
cây cổ thụ hai, ba người ôm. Đường chúng tôi làm phải rộng bốn thước vừa để ô tô
kéo pháo vào trận địa, lại vừa để chuyển được lương thực, đạn dược quanh các mặt
trận. Đường phải giữ hoàn toàn bí mật. Có những quãng hai, ba cây số qua đồi
gianh cũng phải giữ bí mật ! …
Thời gian rất gấp, chúng tôi vận động phát huy sáng kiến,
giảm giờ chết, giảm động tác thừa, tăng năng suất giống như cuộc thi đua kiến
thiết. Chúng tôi làm ra choòng và xà beng bằng gỗ. Chúng tôi nghiên cứu thớ đá để
phá cho dễ. Chúng tôi bắt chước con chó sói đào cây, bới những gốc cây cổ thụ
khổng lồ, dùng dao rựa chặt rễ nó mà hạ. Chúng tôi đã hạ tất cả các cây to bằng
cách đó. Chúng tôi bắt trâu kéo gỗ làm cầu. Ở những quãng đồi gianh, chúng tôi
phải làm những “giàn mướp” dài hàng cây số, rộng hàng năm thước, phủ kín trước đi
mới bắt đầu đào ở dưới. Nhưng khi nào đổ đất, đất lại đỏ lòm hàng mấy trăm thước
đồi, lại phải làm “giàn mướp” che kín đi. Làm thế mà máy bay trinh sát địch lượn
thường xuyên cũng không biết gì hết; chiến sĩ còn phát huy sáng kiến nhiều nữa,
như lắp lưỡi xẻng vào đầu cuốc chim làm cuốc bàn, mắc những cục gỗ nặng vào đầu
cuốc để lúc cuốc đỡ sức người khi bổ xuống, v.v… Cứ như thế có tổ tăng năng suất
một cách phi thường. Mức đặt là mỗi người một ngày bốn thước khối đất, song có
tổ đồng chí Kinh đã làm mỗi người mỗi ngày mười một thước khối, còn trung bình
các tổ khác đều được bảy, tám thước mỗi người. Nhiều chỗ có nhiều đá quá, phải đánh
đường vòng, có chỗ không đánh được đường vòng thì đục sẵn lỗ mìn sắp đến ngày ô
tô vào thì phá để đỡ lộ bí mật sớm quá. Kết quả các đơn vị đều hoàn thành kế hoạch
trước thời hạn từ 10 đến 20%. Toàn bộ kế hoạch của đại đoàn chúng tôi là ba mươi
cây số với hơn mười cái cầu đã hoàn thành trong mười lăm ngày.
Giữa lúc ấy tin chiến thắng ở Tây
Nguyên và Thượng Lào đưa về dồn dập. Chúng tôi càng phấn khởi. Bọn địch thấy im
lặng cho là quân ta đã phải bỏ kế hoạch đánh Điện Biên Phủ, hàng ngày tung hàng
vạn truyền đơn nói láo.
Làm xong đường, các chiến sĩ bộ binh đưa các đồng chí
lái xe đi xem lại. Hai bên bắt tay nhau khoái trá. Chúng tôi bây giờ chỉ còn một
việc ra sức lấy gỗ giúp cho pháo binh làm công sự. Chúng tôi chặt hàng vạn cây
gỗ lớn nhỏ, tưởng chừng như làm trọc cả rừng Điện Biên. Bây giờ quanh vòng Điện
Biên, xe pháo ung dung đi lại, dễ dàng, cơ động di chuyển tuỳ theo kế hoạch tác
chiến. Điều kiện tất thắng rõ thêm một bước nữa!
* * *
Trong khi tiến hành mọi công việc chuẩn bị vĩ đại, chúng
tôi gặp phải khó khăn rất lớn về cung cấp. Chúng tôi ở trận địa cách hậu phương
hàng năm sáu trăm cây số đường rừng, nhiều đèo nhiều dốc. Chúng tôi thiếu thức ăn,
không có rau, không có thịt. Chúng tôi phải ăn gạo nếp, nấu gạo nếp chưa quen,
hay sống, hay nát, hay khê, thiếu thuốc lào. Do đó số ốm tăng lên nhiều. Thế là
toàn quân phát động một phong trào thi đua giữ vững sức khoẻ một cách rộng rãi.
Trước hết phải giải quyết vấn đề bếp. Phải làm thế nào có một bếp nấu ăn ban ngày
không có khói, ban đêm không ánh lửa; pháo bắn ngay bên cạnh công việc cấp dưỡng
vấn tiến hành được. Trước đây, chúng tôi có “bếp Hoàng Cầm”, hay là “bếp Triều
Tiên”; nấu không khói nhưng đã nhiều lần pháo bắn lệch nồi, vung gạo, anh em cấp
dưỡng phải chạy nấp, bếp tắt, khói um, rồi cơm sống, cơm khê. Chúng tôi liền chế
ra một thứ bếp hầm thật vĩ đại có nắp dày hai thước, trong hầm có đủ chỗ nấu,
chỗ làm rau, chỗ để củi. Như vậy lại có một lợi nữa là củi đuốc cũng được dự trữ
yên trí. Trước đây cứ đêm đến anh em cấp dưỡng phải mò đi sờ củi, ngửi thử xem
tươi khô thế nào mà lấy về. Nhiều hội nghị “anh nuôi” được mở liên tiếp để tổng
kết kinh nghiệm nấu xôi, chúng tôi nấu xôi bằng cách đan rá lót lá chung quanh
làm chõ. Lại phải trao đổi kinh nghiệm về cách điều hoà lửa, thông hơi. Phải có
những nguyên tắc khác nhau đối với các thứ gạo khác nhau, có gạo lẫn nhiều tẻ,
gạo lẫn ít tẻ, …
Chúng tôi lại khắc phục vấn đề thiếu thức ăn bằng cách
đào củ mài, kiếm rau rừng và cắm bẫy chim muông. Chúng tôi nêu khẩu hiệu “rừng
là kho thực phẩm vô tận”. Có trung đoàn đào mười lăm ngày được hàng sáu, bảy tấn
củ mài. Kinh nghiệm đào củ mài được phổ biến trên báo chí. Giờ nào tìm dây dễ
thấy, dây thế nào thì củ béo, củ nhiều, dây thế nào thì củ dài, củ gầy khó đào,
v.v… Tất cả những kinh nghiệm đó đều do những chiến sĩ bần cố nông, phải lao động
kiếm ăn từ ngày bé tổng kết lại. Có đồng chí phải đi đào củ mài ăn từ năm lên bảy.
Các đồng chí đã đào được những củ mài dài bốn thước hoặc nặng mười cân. Trong
thời gian làm đường, gạo ăn thiếu, nhiều đại đội đã tổ chức những tổ chủ lực như
“tổ củ mài” gồm những nhà chuyên môn bổ sung được mỗi ngày cho mỗi người hai lạng
củ. Chúng tôi ăn củ xôi, củ luộc, củ trộn cơm, củ xào, củ chè, v.v…
Chúng tôi tìm được nhiều thứ rau rừng: rau tầu bay,
rau má, rau đồng, rau cải soong, rau muống chua, … Có đơn vị tổ chức người lên
tận đỉnh núi người Mèo, tận giáp giới Lào, giáp giới Trung Quốc mua rau (vì người
Mèo hay trồng rau cải lẫn với thuốc phiện rất nhiều), mua bí. Có đơn vị trồng
ngay những vườn rau dền xinh xinh để tự túc. Có đơn vị bẫy gà, trong mười lăm
ngày được hai mươi con gà rừng. Chúng tôi còn tổ chức những đoàn đi đánh cá đi
lùng các ngả suối và về sau chúng tôi lập “công trường” đánh cá, đánh cá tích
trữ ướp muối độ năm sáu hôm lại chuyển về đơn vị một chuyến.
Ngoài ra còn nhiều công trình khác như đào giếng, ngăn
suối; giữ vệ sinh, định tiêu chuẩn làm lán, kế hoạch củng cố lán, thực hiện nước
nóng cơm nóng “bưng lên mồm còn hơi”. Do đó con số ốm giảm đi rất nhanh chóng.
Khi làm đường xong, sức khoẻ bộ đội được hồi phục gần như hồi mới tới.
Vấn đề thuốc lào là một vấn đề gay go ngang cơm gạo.
Trong thời gian làm đường, số thuốc lào dự trữ đã hết, các cơ quan cung cấp chưa
lo kịp. Có đồng chí đã phải đổi một đồng hào bạc trắng lấy một bánh thuốc lào.
Có đồng chí đêm không ngủ được cứ dậy cầm điếu, châm đóm nhìn rồi lại nằm ngáp
vặt, … Tình thế cũng rất gay. Vấn đề phải đặt ra trong cơ quan cung cấp như một
công tác quan trọng. Tính ra đến hết chiến dịch các cơ quan cung cấp cho toàn đơn
vị hơn một vạn bánh thuốc lào.
Do sự trông nom tận tuỵ của các cán bộ và các cơ quan
cung cấp, do quyết tâm khắc phục khó khăn của toàn thể chiến sĩ, tình hình cung
cấp về sau ngày càng khả quan. Sau này thường xuyên bộ đội có thịt ướp, có đỗ
xanh ngâm giá. Suốt chiến dịch, không đơn vị nào phải ăn đói một ngày.
Nhìn lại mới thấy công của đóng góp của nhân dân thật
là vĩ đại. Điểm này chứng tỏ nhân dân ta không quản ngại gì cả, dốc toàn lực mình
để đánh thắng địch.
Và những cuộc chiến đấu anh dũng
Chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu của Điện Biên Phủ không
phải chỉ có thế. Trong khi hàng nghìn, hàng vạn người cả dân công và bộ đội kéo
pháo, làm đường, vận tải rộn rã trong những cánh rừng bát ngát chung quanh Điện
Biên Phủ, kẻ địch của ta đã biết và ra sức đề phòng. Chúng tập trung hàng hai,
ba tiểu đoàn có máy bay và pháo binh yểm hộ nay đánh ra chỗ này, mai đánh ra chỗ
kia, nhằm mục đích dò xét lực lượng ta và đẩy lùi sự uy hiếp của ta. Trong khi đó,
máy bay chúng tập trung rất nhiều, ném bom nổ và bom cháy ở nhiều nơi. Có khi
bom của chúng làm cháy trụi hàng mười cây số rừng ở ven đường số 41 gần Điện Biên.
Công việc chuẩn bị của chúng ta còn có những việc gay
go nữa là: phải có trinh sát nắm tình hình địch, phải có những bộ phận nhỏ lập
trận địa bao vây địch không cho chúng đánh ra.
Suốt trong thời gian ấy, chúng ta có nhiều trận địa phòng
ngự phía Đông và phía Bắc Điện Biên Phủ. Ở phía Đông, có trận địa Pú Hồng Thái,
vùng Long-bua, lại có những trận địa bao vây bằng sơn pháo 75 ly. Ở những trận địa
này đã xuất hiện dũng sĩ đâm lê Hoàng Văn Nô đánh lui hàng hai tiểu đoàn địch.
Ở phía Bắc những trận địa nổi tiếng là trận địa gò 75
và trận địa đồi 674. Gò 75 (thật ra là quả đồi 70 thước, dãy đồi 836 nhưng vì gò
này ta đặt pháo 75 nên gọi là gò 75) có một trung đội do đồng chí đại đội phó
Phạm Đội Trường trực tiếp chỉ huy. Trung đội này có ba mươi hai người đánh lui
hai tiểu đoàn địch và sáu xe tăng, có máy bay, pháo binh che chở, xung phong
chiếm đồi mười một lần trong một ngày. Trung đội 32 người này với công sự sơ sài
và chỉ toàn súng trường, lựu đạn, đã chiến đấu một ngày gian khổ và cực kỳ anh
dũng, có đồng chí cứu thương vừa băng bó cho thương binh vừa cầm súng đánh giặc,
vừa làm liên lạc viên và những đồng chí liên lạc viên, cấp dưỡng vừa làm nhiệm
vụ của mình vừa cầm súng anh dũng giết giặc. Trong trận này đồng chí Phạm Đội
Trường đã hy sinh, đồng chí trung đội trưởng Trần Độ đã chỉ huy trung đội đến cùng
và sau trận đánh hai tiểu đoàn địch phải rút lui một cách thảm hại với số thiệt
hại của chúng chừng hơn hai đại đội bị thương và chết, còn trung đội 32 người của
ta thì 31 người được thưởng Huân chương.
Đồi 674 là quả đồi ở sát vị trí Him Lom của địch và ở
về phía Đông bắc Điện Biên Phủ. Ngày 15-2-1954, địch huy động hai tiểu đoàn lê dương tinh nhuệ, dùng
máy bay và đại bác che chở tiến lên. Ở quả đồi này ta cũng chỉ có một trung đội
chống giữ. Đánh hơn nửa ngày trời, địch xung phong sáu lần, chúng bị thiệt hại
hơn một đại đội, mới tiến được tới đỉnh đồi sau khi quân ta được lệnh rút lui vào
trận địa sâu hơn. Nhưng rồi lên đến đỉnh đồi địch lại hốt hoảng rút lui ngay, rốt
cuộc chúng vẫn không thoát khỏi vòng vây ngày càng xiết chặt vào cổ chúng.
Sau đó ở đồi 75 lại còn một trận
một trung đội của ta đánh lui hai tiểu đoàn địch tấn công một lần nữa. Trong
trận xuất hiện chiến sĩ Lân Văn Vượng dùng súng trường diệt ba mươi hai tên địch,
các chiến sĩ ta cũng dùng súng trường, lựu đạn đánh lui xe tăng của địch, diệt
hai đại đội địch làm cho xe tăng của địch chỉ còn có tác dụng đem thân xác ra
che chở cho lính đi nhặt xác.
Trong những trận chiến đấu này, cán bộ và chiến sĩ ta đã
được dịp thử thách lòng dũng cảm bền bỉ và quyết liệt và đã thực tế đọ sức để
thấy một cách hết sức rõ rệt: quân đội đế quốc hoàn toàn không so sánh được với
quân đội nhân dân ta. Quân ta thường đã tiêu diệt địch ở những đồn hàng hai đại
đội, có dây thép gai, có pháo binh và không quân che chở. Ở đây trái lại ta chỉ
có một trung đội với công sự sơ sài, không dây thép gai, lô cốt, không có pháo
binh, không quân, thế mà địch huy động hết không quân, pháo binh, cơ giới vẫn
không sao tiến chiếm được. Chính trong lúc chúng dùng pháo binh bắn dồn dập,
bom ném tơi bời vào trận địa ta là những lúc chiến sĩ, cán bộ ta động viên
nhau, lau súng, lắp đạn, bình tĩnh ở trong công sự. Đến khi dứt tiếng pháo, lính
địch đẩy nhau “xung phong” lên là lúc các chiến sĩ ta lập công nhiều hơn cả.
Công việc trinh sát là một công việc còn phức tạp, gay
go hơn. Nhưng cũng là công việc có nhiều gương dũng cảm đặc biệt. Đồng chí Lư,
trung đội trưởng trinh sát bắt tù binh hai lần một cách gan dạ, tài tình, một lần
đồng chí cùng một chiến sĩ giữa ban ngày, nguỵ trang cẩn thận bò qua cánh đồng đến
phục ngay gần đồi Độc Lập, thế rồi một tên lính nguỵ lớ ngớ đi ra, đồng chí Lư
tiến sát đến, rất nhanh giơ tiểu liên bắt đi.
Lần thứ hai, đồng chí dẫn gần một trung đội nằm phục ở
một cái rãnh cách đồn Độc Lập ba trăm thước để bắt bọn lính Âu Phi hay đi tuần.
Nhưng lại gặp hôm chúng kéo hai tiểu đoàn ra tấn công. Đồng chí đã động viên
anh em bình tĩnh và bố trí sẵn sàng một kế hoạch chiến đấu. Đồng chí đợi cho đại
đội đầu của địch tiến đến gần. Trong kế hoạch của đồng chí, việc đầu tiên là phải
bí mật bất ngờ bắt lấy hai tù binh về. Nhưng bọn đi đầu đã đến gần quá, trong
khi đồng chí sắp xô đến tóm cẳng hai thằng thì chúng trông thấy một tổ trinh sát
của ta và giương súng bắn. Đồng chí hạ lệnh nhất loạt nổ súng, hàng chục khẩu
tiểu liên thình lình nổ ra rất quyết liệt. Rồi đồng chí hét “xung phong”, cả
trung đội ào ra đánh giáp lá cà. Đồng chí Lư không quên bắt ngay một lính địch
bị thương nhẹ trao cho hai đồng chí trinh sát khác và tiếp tục chiến đấu. Địch hoảng
hốt chạy. Quân ta đuổi chúng về gần đến chân đồi rồi nhân lúc chúng hỗn loạn, đồng
chí Lư đã hạ lệnh lui quân để giải tù binh về một cách nhanh nhẹn. Trận này địch
chết và bị thương độ hai trung đội; bên ta không một ai việc gì. Khi kể lại trận
đánh, đồng chí Lư vẫn cười hiền lành như một người nông dân bình thường và kết
luận: “Bất cứ trường hợp nào mình quyết tâm và bình tĩnh thì nhất định thắng.
Quân địch là một thứ quân đội hết sức yếu ớt về tinh thần. Tương lai trong các
trận đánh cũng như trong toàn cuộc kháng chiến, ta nhất định toàn thắng”.
Lại còn một đồng chí trinh sát anh dũng bị thương là đồng
chí Lê Văn Thiềm. Đồng chí Thiềm cùng hai đồng chí khác có nhiệm vụ phải vào điều
tra tình hình sân bay Mường Thanh. Địch ở Điện Biên Phủ sau khi nghe tin Cát Bi
và Gia Lâm bị ta đánh phá một trận nên thân, ra sức phòng giữ sân bay, ngoài dây
thép gai, mìn, chúng còn có hai đại đội phục kích ở các đường có thể ra vào được.
Hôm ấy khi tổ đồng chí Thiềm đã lọt qua hàng rào dây thép gai (các đồng chí phải
đi từ trong rừng vượt qua giữa hai đồn Him Lom và Độc Lập trên một quãng đường
nguy hiểm dài hàng năm sáu cây số) thì bị lộ và hai đại đội địch xô lại bao vây
hòng bắt sống các đồng chí đó. Các đồng chí trinh sát đã bình tĩnh đứng quay lại
dựa lưng vào nhau dùng tiểu liên chiến đấu. Các đồng chí đó dùng lựu đạn tập
trung ném vào một chỗ rồi ùa chạy. Nhưng chỉ hai đồng chí chạy thoát, còn đồng
chí Thiềm lại bị chúng vây chặt. Một tên
lính da đen cao lớn dùng dao găm đâm vào mặt đồng chí Thiềm. Đồng chí tránh
kịp, tên kia lao người đi, tiện tay đồng chí Thiềm cho một băng tiểu liên,
chúng chùn lại, đồng chí ném luôn hai quả lựu đạn vào một ổ trung liên, ba tên
nữa bỏ mạng; đồng chí quét tiểu liên mãnh liệt về phía ấy, chúng hoảng hốt dạt
ra, đồng chí chạy thoát chui được khỏi hàng rào dây thép gai.
Nhưng sau đó trời hửng sáng, không thể nào đi lọt quãng
đường xa năm sáu cây số được nữa. Đồng chí Thiềm lại bị dao găm địch đâm vào
mang tai, đồng chí đành tìm một bụi cây kín, xem xét lại súng đạn, lắp đầy hai băng
tiểu liên; xếp khẩu tiểu liên và hai quả lựu đạn ra trước mặt, cất một quả lựu
đạn thật tốt đi chỗ khác. Đồng chí tự băng bó cho mình xong thì vừa sáng. Đồng
chí quyết tâm nằm chờ ở đấy, nếu địch tìm thấy thì đánh hết đạn và lựu đạn, đồng
chí sẽ dùng quả lựu đạn cuối cùng để kết thúc thêm đời mấy tên địch liều lĩnh vào
bắt đồng chí và thực hiện khẩu hiệu “Người chiến sĩ quân báo của quân đội nhân
dân không bao giờ để địch bắt”. Đồng chí đã sống căng thẳng, không cơm nước, không
ngủ một ngày trời như vậy. Đến tối đồng chí lại bò vào sân bay một lần nữa xem
xét lại tin tức hai đồng chí của ta trước thế nào, xong mới về báo cáo.
Đồng chí về tới đơn vị giữa lúc cán bộ đang đặt kế hoạch
cho anh em đi tìm thi hài đồng chí. Toàn đơn vị xô ra ôm lấy đồng chí vui mừng đến
rơi nước mắt.
Còn biết bao nhiêu gương hy sinh anh dũng nữa, bao nhiêu
chuyện lạ lùng nữa trong suốt mấy tháng trời chuẩn bị.
Na-va, Đờ-cát đã lầm. Gần Tết chúng tuyên bố: “Cuộc tấn
công của Việt Minh đã đến chỗ cao nhất rồi”. Đờ-cát rải truyền đơn thách quân
ta đánh vào Điện Biên Phủ và ba hoa, láo xược gọi quân đội ta nộp súng đầu hàng.
Nhưng ngay dưới bom đạn của chúng, quân đội ta, nhân dân
ta đã anh dũng hoàn thành công việc chuẩn bị rất công phu để đúng ngày 13 tháng
3 năm 1954 bắt đầu tiếng trống chôn vùi “chiến luỹ Điện Biên Phủ bất khả xâm phạm”
của quân đội Liên hiệp Pháp có các tướng tá của Mỹ bày mưu tính kế.
Trận mở màn
Đồng chí Đại tướng Tổng tư lệnh đã trao cho chúng tôi “nhiệm
vụ vinh quang, nhưng nặng nề là được đánh những trận đầu tiên”. Chúng tôi được đánh
vị trí Him Lom, đây là một vị trí to lắm, có một tiểu đoàn lê dương chiếm đóng,
do viên quan tư Pê-gô chỉ huy. Vị trí này, chắn đường cái lớn từ Tuần Giáo đi vào,
là một vị trí then chốt che chở khu sân bay và Mường Thanh. Nó có ba mỏm công sự
chi chít dây thép gai chung quanh, dầy hàng ba bốn mươi thước, hàng bốn mươi khẩu
đại bác ở Mường Thanh, Hồng Cúm nhằm sẵn bao vây che chở cho đồn. Tên Đờ-cát chỉ
huy cả Điện Biên Phủ rất kiêu hãnh với đồn Him Lom, bọn quan thầy Mỹ và các nhà
báo của đế quốc đều được hắn dẫn đến Him Lom giới thiệu một kiểu mẫu công sự phòng
ngự “bất khả xâm phạm” của hắn. Đồn Him Lom còn được trang bị nhiều thứ tối tân
như ống nhòm đêm, mìn sáng, máy nghe tiếng động đặt ngoài hàng rào, lại còn những
mìn na-pan và mìn “chuông” chứa ba mươi cân thuốc nổ, hễ nó giật điện là chung
quanh đồn một hàng rào lửa quét sạch những người đến xâm phạm, … Cả những người
lính lê dương chán ghét chiến tranh ra hàng quân ta cũng thật thà bảo chúng ta
không nên đánh vào Him Lom. Nhưng một quyết tâm thép đã định ! Liền mấy ngày đêm
công việc chuẩn bị ráo riết và tiến hành theo nước rút. Đồng chí Đại đoàn trưởng
của chúng tôi đêm không chợp mắt, đèn cạn hết phao dầu này đến phao dầu khác. Đồng
chí ra quan sát đài, dùng ống nhòm xem trận địa, rồi lại trở về hầm gọi đồng chí
quân báo, thông tin, tác chiến mở rộng bản đồ nghiên cứu. Các đồng chí cán bộ
khác đêm đêm mò vào gần đồn địch nắn từng hàng rào, sờ từng mô đất, lấy bước đo
tầm hoả lực, ngày về lại tính toán, cân nhắc. Tình hình địch vẫn còn có chỗ chưa
cụ thể, rõ ràng, kế hoạch cũng vẫn chưa thật chu đáo.
Từng đoàn xe dài dằng dặc âm thầm lù lù tiến vào các
ngả trận địa kéo những cỗ pháo nặng nề đưa vào công sự. Các đoàn dân công xe đạp
đi bộ tất tưởi động viên nhau đẩy gạo, gánh đạn vào kho tiền tuyến. Các cán bộ
cung cấp quần áo nhem nhuốc, tay sổ tay bút, lĩnh, phát, đêm ngày. Trên đường,
tiếng đục đá, cuốc đất của những đoàn thanh niên xung phong vẫn vang lên lẫn những
tiếng hò trong trẻo:
Bộ đội hăng hái đánh Tây,
Thanh niên tích cực ra tay làm đường.
Mấy đồng chí bộ binh đi lấy gạo, trông thấy “xe mẹ kéo
xe con” đã vào, cười thầm trong bụng sung sướng về giục bạn “nhanh lên! “nó” vào
rồi”.
* * *
Chiều hôm nay, chiều 13-3-1954, khắp nẻo rừng xôn xao, nhiều đơn vị nhắc lại chuyện
căm thù, tiểu đội 2 nhiều đồng chí vẫn còn sụt sùi nghĩ lại cuộc đời đồng chí
Tuất vừa kể: “Đồng chí Tuất là một cố nông ở Thái Bình, năm nay mới hơn hai mươi
tuổi, vì mất mùa, gia đình phải vay của địa chủ một thúng lúa. Thế là gia đình
tan nát, bố đi làm thuê, mẹ đi mò cua bắt ốc. Tuất
phải đi ở cho địa chủ. Đi ở bị đánh đập nhiều, Tuất không chịu được lại về mò
cua với mẹ. Khi quân Pháp đánh chiếm vùng Tuất, chúng cấm mò cua ở đồng, mẹ con
Tuất đói quá, cứ đi mò, bị chúng bắt giam đánh chết đi sống lại…”.
Các đồng chí nghiến răng nhìn thẳng ra đồn Him Lom,
coi như chính đồn này là nơi đầy máu và nước mắt của đồng chí Tuất và của nhiều
đồng bào khác. Các đơn vị đều hạ quyết tâm, đồng chí Chiêm ở trung đội bộc phá
cương quyết: “Gãy một chân còn chiến đấu, gãy một tay cũng hoàn thành nhiệm vụ
bộc phá”.
Lệnh xuất phát bắt đầu, các giao thông hào tưng bừng lên
như ngày hội. Điện của Hồ Chủ tịch mới đến: “Bác chờ tin các chú, Bác hôn các
chú”. Tiếng truyền đi vừa trân trọng vừa phấn khởi, âu yếm. Thư của Đại tướng,
của Chính phủ và Đại đoàn trưởng rộn lên những mệnh lệnh đanh thép, những lời
tin tưởng.
Dòng người rào rào chạy qua giao thông hào và ra phía
trước. Tiếng kèn “Tiến quân ca” của các đồng chí văn công ở bên cạnh chiến hào
dần dật như những hơi gió mạnh, lém như lửa rừng. Các đồng chí xung kích xúc động
đến gai người lên, nóng bừng mặt, bước đi tưởng chừng như bay bổng.
Đúng bốn giờ, trọng pháo của ta bắt đầu nổ và cũng từ
giờ này bắt đầu đám tang cho tiểu đoàn thứ 3 của trung đoàn lê dương thứ 13,
con cưng của quân đội viễn chinh Pháp. Khắp cánh đồng Điện Biên dài mười cây số
khói lửa mù mịt, tiếng nổ hỗn loạn, gào thét, lửa toé như một cái đe thợ rèn vĩ
đại. Đồn Him Lom bẹp dúm dưới hoả pháo của ta. Cứ hàng trăm quả nện xuống, một
lúc làm cho ba mỏm đồi trước kia ngạo nghễ, nay như run lên bần bật tưởng chừng
sắp phải nứt rạn. Bộ binh trong các giao thông hào cứ nhấp nhổm tưởng chừng muốn
trông rõ xem địch bị chết ngập dưới hoả pháo của ta thế nào, nhiều đồng chí vỗ
tay: “Hoan hô pháo binh”.
Trên trời mấy cái máy bay lơ láo, đạn cao xạ của ta vút
lên như một cây bông rất lạ, một cái bốc cháy, những cái khác lượn cao tít. Thế
là từng đoàn dũng sĩ bộ binh từ các trận địa ào ào tiến ra. Chỉ sau đó sáu tiếng
đồng hồ, trước những tràng pháo bất lực của địch bắn vu vơ, đồn Him Lom thành một
cái mồ trắng phếch dưới ánh trăng mờ; hơn ba trăm tù binh lốc nhốc ra khỏi đồn
dưới mũi súng của các chiến sĩ ta.
Trận đánh thật ác liệt và cũng thật tưng bừng.
Đồng chí trung đội trưởng Diêm chỉ huy phá hàng rào thật
đẹp. Diêm đứng với tiểu đội trưởng Sâm bên cạnh hàng rào vẫy tay cho các chiến
sĩ lên. Chiêm vụt chạy lên dưới khói đạn, lòng vẫn đinh ninh với quyết tâm thư
vừa viết. Bộc phá đầu tiên nổ! Trong chớp
loè, Luận chạy lên, nhưng mới ra khỏi công sự thì bị ngã vật xuống. Chiêm xốc
xuống gọi Luận. Luận chỉ kịp nói: “Trả thù cho tôi”. Chiêm vằn mặt lên, giật
ống bộc phá lại chạy. Vừa gặp Thạo vọt theo: “Anh Chiêm đốt lần thứ hai à?”
Thạo bị thương vào tay rồi nhưng quyết tâm làm trọn nhiệm vụ. Chiêm nói qua hơi
thở: “Tớ trả thù cho Luận”.
Thế là chỉ trong mười lăm phút, mười tám tiếng nổ liên
tiếp vạch một con đường rộng thênh thang, ba tên lê dương ở lô cốt đầu tiên chạy
ra hàng.
Ở chỗ xung phong của chiến sĩ thi đua Nguyễn Hữu Oanh
tình thế càng gay, hai hàng rào phá xong rồi mà các chiến sĩ xung kích dán mình
trong giao thông hào bốn tiếng đồng hồ liền dưới những trận mưa đại bác.
Trong giao thông hào, trung đội trưởng Tuệ, đồng chí bí
thư chi bộ Đảng và là chính trị viên đại đội bò lên lại bò xuống, ghé vào từng
người giọng khàn khàn khói súng nói như quát: “Giữ vững quyết tâm nhất định cắm
cờ vào đồn địch, trả thù cho các đồng chí đã bị thương và hy sinh”. Các đồng chí
bị thương tươi cười: “Các cậu quyết tâm nhé! Trả thù cho tớ!”. Máu như sôi lên
trong người, Oanh, người chiến sĩ ngày thường hiền như bụt, rất ít nói mà hay cười,
bây giờ thì hăng như con sư tử.
Hai phát pháo hiệu trắng vọt lên trời, Oanh sửa lại ngọn
cờ cắm sau lưng, vút lên nhảy tụt xuống đầu giao thông hào. Chui qua một hàng rào
dây thép gai, lại vọt lên mặt đất ném thủ pháo, bắn tiểu liên vào một lô cốt, bịt
tắc lỗ súng của địch và nhanh như cắt lợi dụng các mô đất tiến qua các ụ súng vào
lô cốt cố thủ của địch cắm cờ, các tổ viên đi sau rất sát.
Trung đội phó Hội thì vẫn có một
lối đánh rất bình tĩnh nhưng rất dũng mãnh. Đồng chí bị thương, nhanh chóng tự
băng bó lại tiến lên. Đồng chí nhận được hoả điểm của địch rất nhanh, nép người
tránh, bắn che chở cho Oanh tiến. Tiểu liên hỏng, đồng chí lại bình tĩnh
nép mình ngay trước luồng đạn của địch, chữa lại rồi tiếp tục che chở cho Oanh
bắn tịt lỗ châu mai của địch.
Không thể nào không nhắc đến trung đội trưởng Tuệ một
mình ném mười bốn quả thủ pháo, bốn quả lựu đạn, bắn đến hai băng tiểu liên và
bắt hơn hai mươi địch; tả xung hữu đột, chỉ huy từng tổ, đồng chí lại tự mình
xách quả bộc phá mười cân vào lô cốt chỉ huy của tên quan tư Pê-gô, hắn đã bị bắn
chết; khắp mình Tuệ bị đến mấy chục mảnh lựu đạn bằng hột ngô rát nóng cả người.
Phấn khởi hơn là chuyện Thi và Can (Trần Can, chiến sĩ
thi đua trong chiến dịch Tây Bắc). Năm ngoái Thi và Can ở một tổ tự động tác
chiến chống bảy ụ súng địch ở đồn Bản Hoa trong chiến dịch Tây Bắc thì năm nay
tiểu đội trưởng Thi và tiểu đội trưởng Can nắm hai tiểu đội xung kích diệt bảy
lô cốt địch ở Him Lom. Can vẫn lối đánh nhanh nhẹn, dũng cảm, bắt tù binh gọi hàng
bạn nó, nhảy xuống giao thông hào, nhưng giao thông hào hẹp quá, Can lại nhảy lên
như sóc, diệt từ hoả điểm này sang hoả điểm khác, phất lá cờ “Quyết chiến quyết
thắng” trên lô cốt cuối cùng.
Tuất ghi nhớ mãi mối thù, tuy mới chiến đấu lần đầu nhưng
xông xáo theo sát bước tiến của Trần Can. Về sau tổ trưởng của đồng chí hy
sinh, đồng chí tự động điều khiển anh em chiến đấu. Diệt xong địch, Tuất vẫn
xung phong tiếp tục thu dọn chiến trường.
Còn Thi thì lầm lỳ, chắc chắn. Khi các tổ đánh toả đi
các nơi, Thi túm được hai nguỵ binh đứng một mình giữa đồn địch trong khi tiếng
súng còn nổ ran. Thi bắt một tên gác phía
sau có gì thì phải báo động, còn một tên đi lấy được bảy lựu đạn cho Thi ném. Phải
là một cán bộ gan góc, tự tin, có bản lĩnh của chính nghĩa chinh phục và áp đảo
được kẻ địch, mới có thể hành động như vậy.
Thi đua với Trần Can, tiểu đội phó Nguyễn Tất Hiếu trước
khi lên đường bắt tay mọi người trong tiểu đội, hứa hẹn lập công. Khi xung
phong vào tới đồn địch, sau khi diệt một ổ chống cự của địch, Hiếu phát triển rất
nhanh, gặp tổ nào cũng tự động phối hợp, gặp một ổ trung liên của địch ngoan cố,
Hiếu hô địch vận hai lần, địch vẫn bắn. Hiếu xông vào, một tay nắm lấy nòng súng
đang nóng bỏng của địch giật mạnh, một tay lộn ngược tiểu liên đánh vào mặt tên
địch một báng mạnh. Hiếu xông vào tiếp tục cho đến hết trận đánh, lại còn cõng
anh em bị thương về vị trí dùng sức đến nỗi về vị trí bị ngất đi. Hiếu là một
trong những anh hùng mới xuất hiện theo nhịp bước trưởng thành về tư tưởng cũng
như về chiến thuật của quân đội ta.
Nhưng ở ngay cửa đột phá của tiểu đội trưởng Ngọc Hỷ,
chúng tôi đã được thấy hình ảnh Ma-tơ-rô-xốp Việt Nam. Đó là chiến sĩ anh dũng tuyệt vời Phan Đình Giót. Đánh
bộc phá, mở xong đột phá khẩu, đồng chí Giót bị thương nặng, các lô cốt địch
chung quanh vẫn dai dẳng bịt cửa đột phá của ta. Giót nhớ lại thư của Hồ Chủ tịch
nhắc trước giờ xuất kích: “Các chú đã chỉnh quân, chỉnh huấn, nhận rõ kẻ thù,
…”, Giót nghiến răng bò nhanh rồi vụt lên tựa mình vào lỗ châu mai của địch, hiến
cả một đời sống đang tươi mạnh cho trận đánh thắng, hiến mình cho Tổ quốc và nhân
dân.
Tiểu đội trưởng “dao nhọn” Ngọc Hỷ dẫn tiểu đội vượt
qua một lô cốt địch đã bị đại bác ta bắn sụp, đạp nhảy qua ba hàng rào dây thép
gai đánh thẳng một mạch trong hai phút qua hai lô cốt khác tiến vào một ổ cố thủ
của địch. Địch cậy có công sự, lại ở thế cao liên tiếp ném lựu đạn xuống. Một mình
Hỷ xung phong ba lần không được, lại gọi bộ đội khác tổ chức sáu đợt xung phong
liên tiếp nhảy xổ vào địch trong ánh chớp của thủ pháo, bắt sống hơn hai mươi tên.
Xung kích tiến vào dồn từng tốp như mưa bão. Quân lính
địch dần dần ra hàng hết. Có đồng chí chiến sĩ về sau tả bọn tù binh: “Chúng nó
ra mắt len lét, hai tay giơ lên trên trời rồi mà còn run lẩy bẩy, hét ngồi là
ngồi, hét nằm là nằm xẹp xuống hai tay vẫn giơ lên trời. Chúng ngồi lốc chốc như
đàn cua. Khi bắt chúng ra khỏi đồn, chúng sợ quá, vì đại bác lúc đó bắn nhiều.
Về sau bắt chúng phải ra và ra lệnh cho chúng nằm bò ra giao thông hào của mình.
Chúng nằm bẹp xuống bò ra, trông như đàn giun, đàn rết”.
Đó là “khí phách” của quân đội tinh nhuệ mà thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ từng hết lời ca tụng.
Kể làm sao hết được tinh thần “Quyết chiến quyết thắng”
mà Bác Hồ và Đảng đã giáo dục cho toàn thể bộ đội. Nó đã thấm vào tim gan, thớ
thịt của mỗi cán bộ, mỗi chiến sĩ chúng tôi.
Trận đánh kết thúc, chúng tôi không bao giờ quên được
những giọt máu, những nụ cười của các liệt sĩ Giót, Hiếu, Luận, v.v… có những đồng
chí bị đạn không chắc mình sống nổi nhưng vẫn tươi cười động viên đồng đội. Thật
là những nụ cười thiêng liêng bất diệt, những nụ cười nói lên tất cả hạnh phúc
và tương lai của dân tộc ta và tội ác ghê tởm của quân xâm lược.
Những giọt máu của đồng chí Giót loang trước lỗ châu
mai, phủ trên nét mặt hiền lành là những giọt máu không ức, triệu lời nào ca tụng
hết. Nó sẽ kết thành ngàn vạn hoa tươi, quả đẹp, trăm nghìn công trình xây dựng
hoà bình của xã hội tương lai.
Các chiến sĩ chiến thắng hoan hỷ nhận được điện khen của
Đại tướng Tổng Tư lệnh và lại ráo riết chuẩn bị liên tục chiến đấu.
Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai
Tôi có dịp tới đại đội X. - đại
đội của người chiến sĩ anh dũng “lấy thân mình lấp lỗ châu mai” của trận đánh
Him Lam. Đồng chí chính trị viên, người bé nhỏ, rất trẻ với cặp lông mày thưa,
mắt sáng, kể chuyện lại trận chiến đấu ác liệt của đại đội và gương dũng cảm
của đồng chí Phan Đình Giót.
Khi đại đội đến vị trí xuất phát xung phong, tình thế
trở nên gay go, cuộc tấn công của ta gặp nhiều trở ngại, sắp sửa đến lúc cho bộc
phá lên phá hàng rào thì các đội hoả lực của tiểu đoàn để che chở cho bộc phá đã
bị địch trông thấy từ trước. Chúng tập trung các cỡ súng cối và đại bác bắn vào
đó như mưa, các công sự bị vỡ cả. Trước mặt đại đội, bốn năm lô cốt địch xa xả
bắn ra. Liên lạc với tiểu đoàn, trung đoàn đứt hai lần rồi tắt hẳn. Dùng vô tuyến
điện nối thì cũng bị gãy cần “ăng ten” hai lần. Các cán bộ lo lắng, giờ tấn công
chung đã tới rồi, kim đồng hồ đã nhích quá đi ba phút. Vẫn không liên lạc được.
Trước chỗ lên bộc phá có mấy cây lớn chắn đường. Đại đội quyết định “Phải tấn công
ngay để phối hợp chung”.
Hai đồng chí đặt bộc phá là đồng chí Tuỳ và đồng chí
Tiến xung phong lấy dao lên chặt cây dọn đường dưới lửa đạn của địch. Hai đồng
chí đã hy sinh anh dũng sau khi làm xong nhiệm vụ.
Lửa đạn của địch không cản nổi sức tiến công của ta.
Nhìn đồng chí Tuỳ, đồng chí Tiến, máu căm thù sôi sục. Đồng chí Châu, trung đội
trưởng và đồng chí Dánh, tiểu đội trưởng phụ trách tổ 1 và tổ 2 nhảy lên cầm tiểu
liên che chở cho đồng chí Dấu đánh ống bộc phá đầu tiên. Tổ 1 phụ trách năm ống,
tổ 2 ba ống, tổ 3 ba ống. Đồng chí Giót là tiểu đội phó phụ trách tổ 3. Đồng chí
Giót đánh ống thứ chín. Đồng chí Ky trong tổ đồng chí Giót lên đánh ống thứ mười,
gặp địch bắn rát quá cứ bò toài rất chậm. Đồng chí Giót lại giằng lấy chạy lên đốt
luôn. Bộc phá nổ, dây thép tung lên, đồng chí Giót chưa kịp lui xuống, đồng chí
Liên đang chạy lên đốt ống thứ mười một thì trúng đạn hy sinh ngay. Đồng chí Giót
vừa ôm ống bộc phá vừa ôm đồng chí Liên lui xuống, sau lại nhảy lên đốt ống đó.
Thế là một mình đồng chí Giót làm nhiệm vụ của cả tổ, còn đưa được đồng chí Liên
ra ngoài, … Tiếp sau đó là tiểu đội khác. Tuy gặp nhiều trở ngại như vậy, nhưng
bộc phá của ta rất liên tục, phá toang sáu mươi thước hàng rào dây thép gai.
Mở được cửa đột phá rồi, tình thế lại càng gay go. Hoả
lực của tiểu đoàn không có. Định liên lạc với trung đoàn thì vô tuyến điện nói
hỏng. Đại đội quyết định dùng hoả lực bản thân tự che chở để xung phong. Nhưng
hai khẩu trung liên của đại đội vừa lên vị trí đặt súng thì đại bác của địch đã
tới tấp bắn vào chỗ đại đội. Một khẩu vừa bắn được hơn một băng, các đồng chí bắn
súng đã bị thương và hy sinh cả. Đồng chí thứ ba lên thay, súng bị đất phủ, chỉ
còn cách lôi hai khẩu súng đặt vào chỗ an toàn để bảo vệ súng.
Địch ở lô cốt số 1 thẳng chỗ cửa đột phá và từ các lô
cốt khác vẫn liên tiếp thay nhau bắn ra cửa đột phá, đạn cháy sáng rực. Đồng thời
địa bác của địch bắt đầu bắn, địch vào sát hàng rào. Đồng chí Tần ôm gói bộc phá
mười cân lên đánh vỗ mặt chính của lô cốt số 1; xuống chưa được hai mươi thước
lại bị thương. Nhưng cơ hội xung phong này không thể bỏ lỡ. “Dù ta bị thiệt hại
cũng phải vào đồn diệt địch cho được. Dùng tiểu liên của các đồng chí bộc phá bám
lấy cửa đột phá và cho xung kích xung phong”, đồng chí tiểu đoàn phó đã lên cùng
với chúng tôi ngay sát cạnh tổ xung kích và ra lệnh như thế.
Đồng chí Châu, trung đội trưởng, chấp hành mệnh lệnh rất
nhanh. Châu chia cho đồng chí Hợp, trung đội phó dẫn bốn người tiến lên bên trái,
còn Châu dẫn Chuẩn là tiểu đội trưởng, Giót tiểu đội phó và một chiến sĩ vọt lên
bên phải. Các đồng chí nép hẳn người vào lô cốt số 1, dùng thủ pháo, lựu đạn ném
vào lỗ châu mai. Đồng chí Giót bị một viên đạn vào bả vai, nhưng vẫn bình tĩnh.
Lúc ấy đại đội phó Lộc cũng nhảy lên chỉ huy xung phong. Các đồng chí Chuẩn, Châu,
Lộc liên tiếp nhảy vào lô cốt số 1 qua chỗ bộc phá ta đánh vỡ. Bốn năm ánh chớp
loè liên tiếp, những tiếng nổ dữ dội. Những tiếng hô: “Hồ Chủ tịch muôn năm!”, “Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!” dội lên. Lô cốt số 1 sập hẳn. Các đồng chí
Chuẩn, Châu đã hy sinh. Đồng chí Lộc bị thương nặng vì đại bác địch bắn tới. Tiểu
đội dao nhọn của đồng chí Ngọc Hỷ đã ào lên như gió. Đạn địch ở các lô cốt của
chúng toé ra mù mịt.
Một vài đồng chí trong tiểu đội xung kích ngã xuống.
Phía đồng chí Giót tiếng tiểu liên nổ lên một cách giận dữ, quyết liệt. Hoả điểm
bên phải bị yếu dần rồi tắt. Nhưng trong khi đó lô cốt bên trái, cách lô cốt số
một không xa, đạn vẫn bắn ra dữ dội. Đợt xung phong thứ nhất bị ngắt quãng. Đồng
chí Giót báo cáo:
- Hoả lực số 2 rất mạnh, đề nghị cho bịt xung kích mới
lên được.
Đồng chí tiểu đoàn phó:
- “Lúc này là lúc quyết định, hoả lực ở dưới hết rồi. Đồng
chí Giót hãy sang dùng tiểu liên bịt hoả lực địch ở lô cốt số 2”. Giót nhận mệnh
lệnh và làm ngay. Chúng tôi theo dõi qua ánh trăng mờ mờ và ánh chớp đạn, thấy
bóng đồng chí Giót vụt lao lên phía lô cốt số 2. Rồi không thấy đâu nữa, đạn vẫn
vun vút qua đầu chúng tôi. Lỗ châu mai của địch lập loè một cách điên cuồng… Một
giây, hai giây, … kéo mãi. Đồng chí tiểu đoàn phó nhổm hẳn người lên: “Cố lên! Giót ơi! Kẻo mất thời cơ xung phong!” Thoáng trong tiếng đạn chúng tôi thấy
những tiếng ngắt quãng và phều phào: “Tôi - tôi bị thương rồi!”.
Chúng tôi dán mắt nhìn về phía lô cốt đó; bỗng tim chúng
tôi ngừng đập: một bóng người – đúng là bóng đồng chí Giót - hiện lên ở vách lô
cốt số 2, một bàn tay sờ soạng, bóng người đó đã xê dịch một cách chậm chạp lại
gần lỗ châu mai. Anh tiểu đoàn phó nắm chặt lấy vai tôi. Bóng người vươn cao dậy
rồi ngã phịch xuống che kín cái đóm lửa lập loè điên cuồng ban nãy.
Anh tiểu đoàn phó đứng dậy, anh vung tay quát lên, tiếng
còn ướt qua nước mắt : “Xung phong! Trả thù cho đồng chí Phan Đình Giót!”. Các
đồng chí xung kích chồm dậy băng mình qua lô cốt số 1, chúng tôi cũng lao lên
theo ngay, … Từ đó trận đánh trở nên thuận lợi.
Đồng chí Giót thấy rõ nhiệm vụ của mình. Trong khi đồng
chí ấy nghiến răng lao mình vào lô cốt số 2, chưa bám được vào địa hình nào thì
đồng chí ngã quỵ ngay xuống giữa đường, đùi bên phải nóng bỏng lên, nhưng những
tiếng đồng chí hô ban nãy, lời tha thiết của đồng chí tiểu đoàn phó làm đồng chí
hăng lên, cứ thế đồng chí dùng tay bám đất nhoi mấy cái đến được ngay gần lô cốt.
Đồng chí đang loay hoay tìm cách đánh vào lô cốt. Lúc đó đồng chí đã gần ngay lỗ
châu mai. Lựu đạn thủ pháo hết cả, tiểu liên không biết kê vào đâu mà bắn. Tiếng
đồng chí tiểu đoàn phó vang lên: “Cố lên! Giót ơi! Kẻo mất thời cơ xung
phong!”. Thế là đồng chí Giót đã trườn dậy lấy cả thân mình lấp hẳn vào lỗ châu
mai đang phụt lửa của địch.
Ngừng một lát, thương nhớ cảm động, đồng chí chính trị
viên đại đội kể tiếp:
- Trận đánh kết thúc, chúng tôi trở ra cửa đột phá thấy
đồng chí Giót đã hy sinh, đồng chí ngồi dựa hẳn vào lỗ châu mai bên phải của lô
cốt số 2. Khẩu tiểu liên, những cây gỗ bị đại bác bật tung đè lên người đồng chí,
chúng tôi soi đèn nhìn kỹ thì thấy đồng chí Giót đã hết cả lựu đạn thủ pháo. Toàn
thân đồng chí đẫm máu và bị nhiều vết đạn: mặt đồng chí đã bị bắn nát. Chúng tôi
nhớ lại tiếng tiểu liên lúc xung phong, nhớ lại quyết tâm của đồng chí Giót, chúng
tôi hiểu ngay được đồng chí Giót đã chiến đấu như thế nào. Chính nhờ đồng chí đã
không tiếc thân mình đảm bảo cho đường xung phong đưa cuộc chiến đấu đến thắng
lợi.
Tôi thấy đồng chí đã nêu lên cho tôi một hình ảnh cảm động
và sâu sắc. Đồng chí Giót đã hy sinh một cách hết sức vẻ vang và thật là hình ảnh
Ma-tơ-rô-xốp Việt Nam vậy. Đồng chí Giót đã ghi sâu hình ảnh của mình trong toàn thể quân đội,
toàn thể nhân dân.
Các đồng chí trong đại đội hiểu biết thân thế của đồng
chí Giót rất tỷ mỉ, các đồng chí được dịp ôn lại cuộc đời thân yêu, quen thuộc ấy
một cách kính cẩn và kiêu hãnh: đồng chí Giót quê ở xã Tam Quan, huyện Cẩm Xuyên,
tỉnh Hà Tĩnh, quê hương cách mạng. Đời Giót là một cuộc đời cùng cực, nhà không
có ruộng, cha chết sớm, mẹ Giót được có một mình Giót. Lúc còn bé Giót phải đi ở
cho địa chủ. Cũng như trăm nghìn người nghèo khác, Giót hàng ngày ăn cơm hoà với
nước mắt. Lớn lên, Giót không chịu sống tủi nhục như vậy, bỏ về, mẹ con dắt díu
nhau đi làm thuê. Hai mẹ con sống lần hồi như vậy trong túp nhà tre chưa đầy
hai gian, một gian làm nhà, một gian làm bếp. Đến năm cách mạng thành công, Giót
vào tổ chức quần chúng ở xã, anh em giúp cưới vợ cho. Từ đó Giót thấy cuộc đời đổi
mới, hăng hái làm việc, tham gia dân quân rồi vào du kích. Năm 1950, Giót đi bộ
đội, dân làng tiễn đưa, khuyến khích, mẹ Giót sung sướng dặn dò: “Con đi cố làm
trọn nhiệm vụ”.
Vào bộ đội Giót luôn luôn là một chiến sĩ tốt được anh
em yêu mến. Nhất là từ khi anh được tin mẹ ở nhà được chia ruộng công, vợ anh đã
học bình dân, biết chữ, tự tay viết thư cho anh. Tinh thần công tác gương mẫu,
tinh thần chịu đựng gian khổ, lòng yêu mến đồng đội của Giót đã nổi tiếng trong
toàn đại đội. Giót được tổ chức vào Đảng lao động.
Các đồng chí trong đơn vị nhắc lại những gương tốt của
đồng chí Giót. Một đồng chí nói: “Trước đây ai vào đại đội này, cũng phải chú ý
một tổ ba người, một bố và hai con. Đó là tổ đồng chí Giót. Đồng chí Giót mới
ba mươi hai tuổi nhưng vì vất vả, gian truân trông nhăn nheo như một cụ già, cậu
Thi và cậu Bốn thì mới mười tám, mười chín, khi tập hợp thì cứ “bố” đứng giữa, hai
“con” đứng hai bên. Đồng chí Giót tằn tiện từng tý, chẳng ăn quà bao giờ, nhưng
khi nào đi lấy gạo hay đi công tác về cũng mua hai quả chuối cho hai cậu Thi và
Bốn. Tối đến sắp đi ngủ là đồng chí Giót lại xách một ống nước, gọi Thi và Bốn đi
rửa chân. Đồng chí Giót thương hai đồng chí trẻ ấy đặc biệt lắm. Nửa đêm đến lượt
đồng chí đi gác, đồng chí nằm giữa ngồi dậy một cách nhẹ nhàng, đắp chăn cẩn thận
cho hai đồng chí trẻ rồi mới ra”.
Một đồng chí khác kể:
- Chả cứ đối với Thi và Bốn, ở tiểu đội tôi, ai cũng gọi
đồng chí Giót là anh cả của tiểu đội. Từ khi làm chiến sĩ đến khi làm tiểu đội
phó, việc gì đồng chí cũng gương mẫu. Tối nào đồng chí cũng lấy lá cỏ khô hoặc
kiếm nứa một mình đi đốt muỗi, lúc nào rỗi đồng chí đi đan mũ cho anh em, chả lúc
nào ngơi chân, ngơi tay.
Đồng chí Nghiêm, một cán bộ tiểu đội cùng quê với đồng
chí Giót kể thêm: “Tôi cũng vào bộ đội với Giót đã cùng chiến đấu với anh ở trận
Tràng Bạch, trận chùa Tiếng, trận đồi Miêu và ở chiến dịch Tây Bắc, lúc nào anh
cũng bình tĩnh, vui vẻ. Hồi chiến dịch Hoà Bình sang đánh đường 87, hoàn cảnh rất
khó khăn, không có gạo cứ phải rủ nhau đi tìm bưởi rụng ăn, nhưng anh vẫn vui vẻ
nói: “Phải chịu đựng gian khổ, đánh thắng giặc mới hết khổ”. Hồi chiến dịch Tây
Bắc, bộ đội phải truy kích địch ở vùng Sài Lương, đồng chí Giót mang cơm đuổi
theo bộ đội, gặp trời tối, nước lũ, phải chui qua rừng giang rất mệt, nhưng đồng
chí vẫn luôn luôn nói: “Ta mà sợ mệt không mang nhanh cơm đuổi theo các cậu ấy
không giết được địch”.
Một đồng chí trẻ, chân tay vạm vỡ, có hai ba vết dây
thép gai sướt trên trán từ nãy vẫn ngồi trầm ngâm bây giờ mới lấy tay rứt một cái
cỏ bên bờ giao thông hào nói: “Tôi mới vào bộ đội, tôi chưa phải là đảng viên,
tôi thấy đồng chí Giót là một người cùng khổ, vào bộ đội được học tập, khi thường
thì tận tuỵ công tác, giúp đỡ, động viên anh em, khi chiến đấu thì cực kỳ anh dũng,
chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Anh thật xứng đáng là người đảng viên để chúng
tôi noi theo. Chúng tôi càng thấy tin tưởng vào Đảng và càng tin vào thắng lợi
cuối cùng”.
Riêng tôi nghe xong, tôi cũng thấy không cần phải nói
thêm gì nữa. Đồng chí Giót hy sinh, không những đem lại chiến thắng rực rỡ cho
trận đánh mà còn đem lại thêm nhiều sức mạnh mới vĩ đại cho toàn đơn vị cũng như
cho toàn quân. Sức mạnh đó đã chiến thắng những vũ khí tối tân của Pháp Mỹ ở Điện
Biên Phủ và còn chiến thắng mãi mãi.
Lá cờ của Bác
Trận đánh đồi Độc Lập là một trận đánh ác liệt dữ dội
không kém trận đồi Him Lam.
Đồi Độc Lập là một quả đồi lớn do một tiểu đoàn lính
An-giê-ri đóng giữ. Ta chia hai mũi đánh vào dưới sự che chở của pháo binh. Đánh
từ hai giờ sáng ngày 14-4-1954 đến sáu giờ sáng ngày mười lăm thì tiêu diệt toàn bộ. Địch ở Mường
Thanh cho bảy xe tăng và hơn một tiểu đoàn ra ứng cứu nhưng cũng bị pháo binh và
bộ đội ta đánh chạy tán loạn.
Điển hình cho tinh thần anh dũng của các chiến sĩ đồi Độc
Lập là tiểu đội cắm cờ của đồng chí Trần Ngọc Doãn có chiến sĩ thi đua Nguyễn Văn
Các là tiểu đội phó và là tổ trưởng Đảng.
Sau trận đánh, tôi gặp đồng chí Doãn trong hầm chỉ huy
của Bộ tư lệnh Đại đoàn. Tôi thấy một thanh niên hai mươi bốn tuổi, người tầm
thước, mặt rất hiền, tuy vẫn còn những tia máu đỏ. Giọng anh trầm, đầy tin tưởng,
mỗi khi anh cười, đôi môi to và hàm răng trắng vẫn lộ một vẻ trong trẻo, ngây
thơ. Nước da anh hơi xanh dưới ánh đèn. Anh kể lại:
- Chiều hôm ấy chúng tôi được lệnh xuất kích, chúng tôi
vô cùng phấn khởi. Tôi và tất cả các đồng chí trong tiểu đội xem lại vũ khí cẩn
thận. Đồng chí Thiêm, tiểu đội phó, sửa lại cán cờ và xem xét lại lá cờ “Quyết
chiến quyết thắng” của Bác mà chúng tôi được vinh dự nhận nó để cắm vào chỉ huy
sở đồn địch trận này. Tôi thấy vui quá, tôi nghĩ liên miên lại tất cả mọi việc
từ hôm chúng tôi nhận được cờ.
Hôm ấy ban chỉ huy tập trung đại đội tôi lại, đồng chí
Vỵ chính trị viên đại đội nói:
- Chúng ta là đơn vị chủ công, chúng ta được đại đoàn
và trung đoàn tin tưởng trao cho lá cờ này là cờ của Bác tặng cho đơn vị nào
nhiều thành tích nhất, chúng ta nghĩ đến công ơn của Bác, của Đảng, của cấp trên,
hết sức dũng cảm chiến đấu quyết tâm đến cùng, nhất định cắm bằng được cờ vào
chỉ huy sở của địch, xây dựng truyền thống cho đơn vị ta.
Thật ra cờ đã trao cho tiểu đội chúng tôi từ lâu. Hôm
nhận được cờ, chúng tôi cử đồng chí Các cũng là tiểu đội phó. Đồng chí Các lấy
giấy báo gói lá cờ cẩn thận, vuốt ve suốt ngày, toàn tiểu đội lại làm mọi việc
lao động một nửa ngày cho đồng chí Thiêm vót cán cờ dài một thước hai cho thật đẹp,
khi đồng chí Thiêm vót ai cũng đi qua góp ý kiến. Hôm nay đồng chí Thiêm thay mặt
tiểu đội hứa sẽ cầm cờ đi đầu và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Tôi lại nghĩ đến tiểu đội tôi, thật là mỗi người mỗi tính,
mỗi nết, nhưng thương yêu nhau hơn ruột thịt. Các là chiến sĩ thi đua, người đen
đủi, gày gò, anh em ai cũng phục về tinh thần dũng cảm và biết rõ cuộc đời đầy
cực nhục, khổ sở, đầy căm thù của anh. Người anh yếu, anh chỉ ky cóp tiền phụ cấp
mua trứng đường ăn cho khoẻ người, nhưng tính anh vui, luôn luôn làm câu hò và
câu hát trống quân để động viên anh em. Anh Thiêm người cẩn thận, chăm chỉ, anh
cứ loay hoay làm cả ngày, có khi làm hộ việc cho hai, ba người một lúc. Đồng chí
Viên thì cũng thế, hay nói chuyện thủ thỉ, thấy ai có khuyết điểm cũng thẳng thắn
phê bình hay đến gặp đồng chí Các và tôi để yêu cầu chúng tôi giúp đỡ. Đồng chí
ấy đang mong được vào Đảng. Khi chúng tôi viết quyết tâm thư, đồng chí ấy cũng
viết cho Đảng uỷ Đại đoàn.
“Tôi lúc nào cũng tin tưởng vào Hồ Chủ tịch và Đảng sáng
suốt lãnh đạo chúng tôi, … Tôi quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, người này ngã, người
khác xông lên, gặp trường hợp gay go thế nào nhưng tôi cũng hứa làm tròn nhiệm
vụ, không lùi bước trước mũi súng của quân địch để xứng đáng là chiến sĩ của quân
đội nhân dân và sau chiến dịch này tôi xin được vào Đảng”.
Chúng tôi không lúc nào muốn xa nhau khi sắp làm nhiệm
vụ. Thấy không khí như thế, chúng tôi tin tưởng ở tiểu đội chúng tôi vô cùng. Hôm
họp tổ Đảng để lãnh đạo anh em làm nhiệm vụ dao nhọn thọc sâu, đồng chí Các nhận
định anh em là còn tư tưởng ngại cô lập, sợ bị bao vây. Chúng tôi chia nhau vừa
làm công sự vừa kể chuyện Giáp Văn Khương, chiến sĩ thi đua Trần Can đánh thọc
sâu, anh em lại hết sức tin tưởng. Có thể nói cho đến lúc ngồi giao thông hào
chờ lệnh xuất kích chúng tôi không còn một chút thắc mắc gì, chỉ nóng lòng được
nhảy vào đồn địch.
Lá cờ đối với chúng tôi thiêng liêng lắm, nhất là lại
vừa được thư của Bác gửi nhắc nhở trước giờ xuất kích, chúng tôi ai cũng tưởng
chừng như Bác ở ngay cạnh chúng tôi.
Đồng chí Doãn lại rướn người cao hơn chớp mắt liền mấy
cái, mắt đồng chí như xanh hơn một chút, đồng chí vung tay lên như để giấu một
sức xúc động mạnh và kể tiếp:
“Lúc ấy đồng chí Thiêm ngồi dựa lưng vào giao thông hào
giơ lá cờ ra vuốt lại, lá cờ lúc ấy đỏ rực cả giao thông hào. Lập cởi ngay chiếc
dây dù buộc mũ đưa cho Thiêm bảo buộc bằng dây dù để lúc phất giật ra cho dễ.
Toàn tiểu đội lại ngó vào lá cờ, anh nào anh nấy rạo rực cả người, những tua vàng
xung quanh óng ánh, chữ “Quyết chiến quyết thắng” vàng chói”.
Vừa lúc ấy một đồng chí cán bộ ở phòng chính trị Đại đoàn
đem lá cờ vào báo cáo với Đại đoàn trưởng, đồng chí Đại đoàn trưởng nghiêm
trang như khi nhận lệnh, hai tay trân trọng đón lấy lá cờ. Tôi bỗng cũng thấy
trong người rạo rực và tất cả chúng tôi đều đứng dậy. Đồng chí Doãn lại chớp mắt
liền. Lá cờ bây giờ không còn như đồng chí Doãn tả, nó không có tua nữa, ba mép
đều xơ ra, màu đỏ sẫm khác, chữ “Quyết chiến quyết thắng” đã xơ ra, mất cụt hẳn
chữ “ng” cuối cùng. Trong hầm im lặng một cách kính cẩn. Đồng chí Đại đoàn trưởng,
mắt đăm đăm như đang theo dõi một cuộc chiến đấu ác liệt, anh dũng hiện trên lá
cờ vinh quang. Đồng chí từ từ ngồi xuống ấp lá cờ vào lòng, thong thả nhắc: “Đồng
chí cứ tiếp tục kể tiếp đi”.
Doãn lại tiếp tục, mặt vẫn trìu mến nhìn lá cờ trong
tay đồng chí Đại đoàn trưởng.
“Chúng tôi được lệnh xuất kích, tôi đi đầu, đồng chí
Thiêm cầm cờ, lúc ấy cuốn lại, giơ cao lên đi thứ nhì, ra đến giao thông hào, ở
đó đã có đồng chí chính trị viên đại đội, ban chỉ huy tiểu đoàn và đồng chí chính
uỷ trung đoàn. Anh em các đơn vị chung quanh hoan hô cờ náo nhiệt. Đồng chí Vỵ,
chính trị viên đại đội nói to lên: “Các đồng chí hãy làm tròn nhiệm vụ cắm một
cái đinh vào giữa tim kẻ địch để đơn vị ta chiến thắng. Tin tưởng ở các đồng chí”.
Các đồng chí cán bộ đều lần lượt nắm tay và ôm hôn chúng tôi, làm chúng tôi sôi
lên chỉ muốn chạy thật nhanh”.
Đồng chí Các thay mặt anh em hứa: “Chúng tôi quyết hy
sinh đến giọt máu cuối cùng, người trước ngã, người sau lên, không để rời cờ một
phút, quyết cắm vào đồn địch”. Cờ trong tay ta đây, ta quyết hoàn thành nhiệm vụ.
Lập và Tuỳ: “Chúng tôi sẽ quyết hy sinh…”. Một đồng chí ở đơn vị khác cũng cổ
động chúng tôi: “Chúng ta dù có hy sinh nhưng cờ sẽ còn mãi mãi, tinh thần chúng
ta còn mãi mãi”. Tiếng “tin tưởng các đồng chí thành công” còn xôn xao rất lâu.
Lúc ấy đã nửa đêm, chúng tôi ngồi ở vị trí phía điểm xuất phát xung phong chờ bộc
phá mở hàng rào, chúng tôi chờ lâu lắm, mãi đến hai giờ sáng ta mới dồn dập nổ
súng. Nằm ở hàng rào, chúng tôi nóng ruột vô cùng. Đại bác địch không ngớt bắn
vào chung quanh chúng tôi, hai quả trúng gần mép hào ở cuối tiểu đội, đất vỡ vùi
mất đồng chí Ý và đồng chí Duyên, nhưng các đồng chí lại dậy ngay. Chúng tôi
lau lại súng và ấp súng vào người che cho kín, đất đá cứ xa xả bắn vào người chúng
tôi. Ngồi thế, càng nghĩ càng thấy tin tưởng ở trên lãnh đạo làm công sự vì chúng
tôi hết sức bình tĩnh cho nên không lo ngại gì cả. Lúc ấy tiếng nổ nhiều quá. Bỗng
có một tiếng bộc phá bắt đầu, xung kích chuẩn bị, chúng tôi chồm dậy vội vã xem
lại súng, xít lại thắt lưng, nắn xếp lại lựu đạn, thủ pháo sẵn sàng chạy xung
phong. Hai mươi nhăm tiếng nổ liên tiếp choáng cả tai. Chớp bộc phá nhoang nhoáng,
bóng các chiến sĩ bộc phá vụt lên, tụt xuống liên tiếp nối đuôi nhau trong ánh
chớp rất đẹp.
Lệnh dàn ra chuẩn bị xung phong, đồng chí Các lại nói
to: “Chúng ta giữ vững quyết tâm, giữ vững lời hứa”. Hai phát pháo đỏ vọt lên
trời sáng rực, chúng tôi nhảy khỏi giao thông hào. Tiếng đồng chí Các lại vang
lên: “Thiêm mở cờ ra”. Đồng chí Chành ở trung đội bộc phá chạy trước, chỉ cho
chúng tôi vào cửa đột phá có vết vải trắng đã trải ra đánh dấu. Tôi chạy vội quá,
quần vướng phải một đầu dây thép gai rách toạc ngã vật xuống. Thiêm vọt lên trước
theo sau lá cờ đỏ của đồng chí Nhị, Viện, Lập. Một chùm đại bác địch nổ ngay vào
cửa đột phá mù mịt cả. Chúng tôi chạy được hơn thước, tôi hạ lệnh nằm cả lại.
Ngay lúc đó, Các bị thương vào tay, vào đầu, Mân bị vào ngực và mặt. Tiên, Duyên,
Ý bị nặng, phải nằm lại, chúng tôi lại xung phong tiếp, đại bác địch lại nổ liên
tiếp mấy chùm, chúng tôi tối tăm cả mặt. Trời sáng trăng hơi mờ mờ, cờ bay phần
phật trước hơi phá của đại bác địch. Hoả lực đan dầy ở cửa đột phá, nhưng chúng
tôi khom người vừa chạy vừa hét: “Cờ đã nhuốm máu của tôi rồi, ta nhất định thắng,
tiến lên”. Thế là cả tiểu đội chúng tôi đã vọt qua lưới lửa của địch tiến đến một
mỏm cao trong đồn địch. Tôi hầu như không phải chỉ huy. Thiêm vẫn phất lá cờ làm
chuẩn một tổ dàn bên phải, một hình tam giác rất nhanh và tự động. Tiếng Các vẫn
lanh lảnh: “Giữ vững quyết tâm, giữ vững quyết tâm”. Lại một tràng moóc-chi-ê
của địch dội đến. Thiêm ngã vật ra, Viện tiếp lên cầm cờ phất ngay, Tuỳ bị thương
nặng. Tôi lợi dụng pháo sáng của địch quan sát tình hình, thì ra khi chúng tôi
vào địch đã bỏ chạy cả, không có súng bắn thẳng nữa.
Tôi hạ lệnh “bí mật phát triển”. Lúc ấy tiểu đội tôi
chỉ còn tám người. Chúng tôi men theo giao thông hào đi được một lúc, tôi chộp được
hai tên nguỵ binh, cho một tên về sau còn một tên dẫn đường. Lại một tràng moóc-chi-ê
trúng chỗ chúng tôi. Viện ngã, lá cờ chưa kịp ngả ra, Lập đã đỡ ngay cầm lấy. Lúc
ấy Thiêm bị thương hai lần nhưng vẫn đi đầu. Chúng tôi đi nhanh vượt qua hết các
hầm nhỏ, không cần để ý xem đơn vị sau có tiếp không? Thiêm báo cáo “có cái hầm
to”. Chúng tôi cho một loạt thủ pháo, lựu đạn. Trong hầm địch kêu oai oái, chúng
tôi bồi thêm cho hai quả thủ pháo rồi bỏ đấy, cứ thọc sâu vào. Thấy có mấy ụ
cao cao, tôi hạ lệnh dừng lại. Lập lên quan sát đúng là khu moóc-chi-ê 120 ly của
địch, lập tức tôi phân công hai người một ụ, chúng tôi đánh hai đợt, trúng cả tám
ụ, địch chết bốn còn chúng chạy cả, thế là dẹp xong cái đám súng thường ngày
hay bắn lung tung nhất.
Theo kế hoạch, chúng tôi tiến đến đấy là xong nhiệm vụ
thọc sâu. Thiêm giằng lấy cờ đứng lên phất, chúng tôi chờ đại đội đến. Lúc này địch
vẫn tiếp tục bắn lung tung. Lại thấy tiếng Các: “Tôi đã bị thương lần thứ hai,
nhưng quyết tâm chiến đấu với các đồng chí đến cùng”. Tiếng trả lời của các đồng
chí Viện, Thiêm (đều đã bị thương hai lần) và các đồng chí khác “quyết tâm trả
thù”, “tôi không rời trận địa”. Tôi sực nhớ ra, hỏi ngay “hầm quan tư đâu”, tên
nguỵ binh gật đầu “hụ, hụ” (biết, biết).
Đến hầm tên quan tư, địch ở trong hầm ném lựu đạn ra
như mưa, Các lại bị thương lần thứ ba vào cằm, nhưng vẫn không quên động viên
anh em. Chúng tôi thay nhau ném pháo và địch vận, chúng đã ra hàng đến hơn ba mươi
tên mà trong hầm vẫn còn đông lắm. Một lúc chắc địch đoán được lực lượng của chúng
tôi ít, chúng phản xung phong ra bằng lựu đạn và tiểu liên. Các nhảy ngay lên,
lao quả bộc phá dài thước hai vào hầm, chúng lại tịt. Tôi hô “xung phong”, tất
cả ùa vào, nhưng một hoả điểm cao ngay sát cạnh đó trút đạn vào chúng tôi. Thiêm
ngã xuống ôm cờ vào ngực. Các nhảy lại, giật lấy cờ giơ cao lên. Cờ bay phần phật
nhưng đã bắt đầu mất tua rồi. Tôi hô: “quyết tâm chiến đấu để trả thù cho Thiêm”,
vì tôi chắc Thiêm đã hy sinh.
Địch hô: “a-lát-xô”, chúng tôi lại cho một chập thủ
pháo, lựu đạn, địch lại tụt vào trong nhưng trên hầm cao chúng lại trút đạn xuống.
Viện bị thương lần thứ ba.
Lập bị thương lần thứ hai.
Mậu bị thương lần thứ hai.
Các bị thương lần thứ tư, ngã xuống lại bò dậy. Tùng
nhảy lên cầm cờ. Cờ lúc ấy đã cụt cán, Tùng buộc ngay vào đầu súng vừa giơ lên
vừa nói: “Cờ vinh quang ta không để rời một phút”. Tôi chủ trương lợi dụng công
sự địch, ném lựu đạn cầm canh vào cửa hầm giam chúng nó trong đó đợi đại đội. Các
không đi được nữa vừa gắng sức bò đi chỗ này, chỗ khác vừa nói: “Tôi không chiến
đấu được nữa, tôi tiếp tế cho các đồng chí, ta quyết tâm đến cùng”. Tôi biết đồng
chí Các đau lắm rồi vì lần thứ tư đồng chí bị thương vào mặt và tay. Nhưng tình
thế thật khẩn trương, bụng tôi bối rối không biết nói với đồng chí Các thế nào,
chỉ biết tập trung được lực lượng “quyết cắm cái đinh này” chờ đến lúc phá xong
đồn mà thôi. Tôi chỉ thấy trước sự hy sinh anh dũng của các đồng chí như vậy thì
nhất định làm trọn nhiệm vụ mà mỗi lúc tôi càng thấy tin chắc chắn là nhất định
làm được.
Đồng chí Các bò lại đưa cho tôi hai hòm lựu đạn đã mở
sẵn của địch, rồi lại bò đi nhặt thủ pháo, lựu đạn khác phân phối cho các anh
em khác. Địch trong hầm tên quan tư không ngớt hô “a-lát-xô” nhưng không có tên
nào ra, riêng tôi đã ném vào đó mười lăm quả trong số lựu đạn đồng chí Các đưa
cho tôi. Hầm trên vẫn bắn và ném lựu đạn xuống, tôi bị hơi nổ nhiều quá tức ngực
nghẹt thở nhưng trông thấy lá cờ lất phất bay, trời lại gần sáng, cờ rõ cả màu đỏ
thì vẫn thấy vững dạ và bình tĩnh vô cùng. Cờ lúc ấy đã bị vạt một miếng.
Độ 7 giờ sáng tôi thấy anh Tiện đại đội phó tiến vào,
tôi hét lên như gặp mẹ về chợ “Doãn đây! Doãn đây! Hầm tên quan tư đây! Đề
nghị anh cho phối hợp đánh ngay…”.
Trời mưa tôi trông thấy ba mặt bộ đội ta đều vào cả, tôi
sướng quá, muốn nhảy lên. Thế là sau mấy phút chúng tôi đánh xong hầm tên quan
tư. Nhìn lại chúng tôi mới thấy chúng tôi
thọc sâu đến hai phần ba đồn, xa xa phía Nam, một đơn vị khác của ta đang bắn
ba-dô-ca vào đám xe tăng của địch. Bộ đội đang xung phong đuổi đánh địch đến
tiếp viện ở trên cánh đồng. Lá cờ của chúng tôi quả đã cắm đúng chỉ huy sở của
địch. Từng người to lớn, đứng trên cao giơ mãi khẩu súng và lá cờ lên tưởng như
thế nào cũng chưa đủ cao cho các đơn vị trông thấy, cờ bay phần phật mãi. Đến
lúc ấy lá cờ đã truyền tay qua sáu lần cho sáu người trong tiểu đội mà bốn
người đã bị thương.
Nói một mạch, Doãn ngừng lại thở một hơi thật dài, định
dừng lại nghỉ, nhưng bỗng mặt sầm lại nghẹn ngào, giọng âm thầm:
- Lúc ấy anh Minh Sơn tiểu đoàn phó vào ôm lấy đồng chí
Thiêm hỏi: “Thiêm có đau không?”, đồng chí Thiêm máu đã loang đầy áo trấn thủ
và mặt, tóc xoã ra, đồng chí mệt nhọc: “Máu tôi đã được nhuốm vào cờ… tôi… tôi… tôi hy sinh cho chiến đấu” rồi đầu đồng chí ngả về một bên tắt thở. Chúng tôi
thắt ruột, thắt gan lại nhìn vẻ mặt thân yêu quen thuộc kia, bây giờ vẫn bình tĩnh,
hiền lành nằm đây. Chúng tôi đều ngước nhìn lá cờ, quả là máu đã loang khắp ngôi
sao vàng có ngấn đỏ tươi, … anh Các và các anh em bị thương khác tuy rất mệt,
quần áo rách mát, mặt mũi bẩn thỉu nhưng đều gắng chống súng đứng dậy chung
quanh lá cờ và bên cạnh đồng chí Thiêm đã yên nghỉ vừa sung sướng vừa bùi ngùi.
Đám tù binh ngơ ngác run sợ lũ lượt kéo qua trước mặt chúng tôi đi về đường
sau, trong đó có cả tên quan tư.
Khi về tôi chỉ nói được với đồng chí Vỵ chính trị viên
đại đội: “Chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, tuy tiểu đội tôi còn có hai người
chưa bị thương: tôi và Tùng!”. Đồng chí Vỵ ôm lấy tôi: “Các đồng chí đã hoàn
thành nhiệm vụ”.
Đồng chí đại đoàn trưởng trải lá
cờ ra bàn cảm động nắm lấy tay Doãn:
- Đúng các đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thành
một cách rất vẻ vang, các đồng chí đã xứng đáng với lá cờ vinh quang của Bác. Đồng
chí Thiêm đã hy sinh anh dũng và vẻ vang, đồng chí Các thật xứng đáng là một đảng
viên và một chiến sĩ thi đua. Chúng ta ghi sâu căm thù này, nhận rõ chiến thắng,
chuẩn bị một sức mạnh mới tiếp tục chiến thắng đến hoàn toàn tiêu diệt hết địch
ở Điện Biên Phủ.
Xiết chặt vòng vây
Một trong những cái vĩ đại của chiến dịch là trận địa
kiên cố để bảo đảm các cuộc chiến đấu liên tục đến toàn thắng. Không phải chỉ có
lúc đánh nhau nổ súng mới có trận địa mà cứ bộ đội ta ở đâu, ăn đâu, đi đến đâu
đều có giao thông hào và hầm hố ngày một nhiều và vững chắc đến đó.
Các chiến sĩ của chúng ta lớn lên sau cuộc chỉnh quân
chính trị lại được Bác và Đảng hàng ngày dạy dỗ, được đồng chí Tổng Tư lệnh đi
sát chỉ bảo như một người anh cả rất thân mến, như đã có sức kéo hàng chục tấn
thép của những khẩu pháo tới trận địa, đã có sức bạt đồi núi, lấp suối lầy thành
những con đường rộng cho xe cơ giới ta chạy, nay lại vẫn những bàn tay được tôi
luyện đó đã dùng xẻng và cuốc đào hàng chục cây số giao thông hào, với những trận
địa xuyên qua cả ba, bốn hàng rào dây thép gai đến tận sát lỗ châu mai đồn địch.
Các chiến sĩ thấy trước mặt tất cả những khó khăn lớn,
biết sẽ có hàng chục đêm liền không ngủ, mỗi đêm đào là có thể mất một, hai bạn
đồng đội, còn phải đi xa mới lấy được đủ gỗ để làm trận địa hoả lực và hầm ở.
Nhưng các chiến sĩ đã hiểu rõ, nhớ kỹ lời cấp trên dặn dò “Có đào mới đánh” hay
“Chiến dịch này là chiến dịch công sự” nên quyết tâm đã lên đến cao độ.
Trung bình mỗi ngày các chiến sĩ chỉ ngủ được ba tiếng
đồng hồ. Hôm nào cũng thế, mãi đến 7, 8 giờ sáng, các chiến sĩ mới từ ở trận địa
về đến đường vào trú quân, cơm nước xong, kiểm điểm. Chín giờ mới ngủ được cho đến
12 giờ đã phải dậy để chuẩn bị đi chặt gỗ, vác gỗ, … Đến 3 giờ trở đi về nhà
sinh hoạt, cơm nước rồi lại cuốc xẻng lên vai cho đến lúc mặt trời sáng mãi mới
trở về.
Cứ như thế, bọn địch ở mỗi cứ điểm càng nghe thấy gần
tiếng cuốc bao nhiêu là chúng càng run sợ bấy nhiêu. Vì chúng có thể đoán trước
giờ chết của chúng. Chả thế mà đã có nhiều tên nguỵ binh chui rào trốn ra ngoài
đến chỗ bộ đội ta đang đào trận địa, nhiều tên run rẩy xin nộp súng và xin nhận
một phần đất để đào cho bộ đội. Từ sau trận Him Lam, Độc Lập, các chiến sĩ cũng
thấy rõ trận địa công sự của ta đóng một vai trò rất quan trọng đối với thắng lợi.
Các chiến sĩ bộc phá và xung kích hả lòng hả dạ tin ở trên, tin mình, tin chắc
thắng cả một trăm phần trăm khi vững tiến dưới giao thông hào xông thẳng vào đồn
địch. Hàng trăm quả đại bác địch tức tối điên cuồng nổ phá nát nhừ cả khu đất
trước cửa đột phá, trên hướng tiến quân của ta, nhưng chẳng có quả nào rơi lọt được
vào giao thông hào. Nhiều quả rơi trúng mép sạt đất. Có anh bị lấp đất, nhưng lại
vùng dậy, tay vẫn nắm chắc ống bộc phá, miệng vẫn hô: “Kệ địch bắn pháo, ta cũng
có pháo! Ta có giao thông hào”. Những anh lính cũ hãnh diện thấy mình lớn mạnh,
những anh lính mới trẻ tuổi vinh dự thấy mình được dự trận đầu tiên của chiến dịch
lịch sử.
Trong giao thông hào, chiến sĩ ta hoan hô các đồng chí
cao xạ bắn trúng máy bay địch. Hai chiếc khu trục kiểu Mỹ bị trúng đạn đâm bổ
nhào xuống cánh đồng Điện Biên, những chiếc khác lảng xa tít. Trên đồi, hoả lực,
trọng liên, đại liên và nhất là đạn Đ.K.Z nhà ta đã thun thút chui vào lỗ châu
mai của địch, xung kích càng hoan hô và tin tưởng.
Với lòng tin tưởng và quyết tâm như thế nên dù mỗi đêm
đào trận địa là một đêm chiến đấu gay go, các chiến sĩ ta vẫn cứ tiếp tục đào, đường
hào cứ bò dần chắc từ Him Lam đi sâu xuống phía Đông bóp nghẹt địch ở đồn A, B
tiêu diệt chúng ở đây rồi chọc thẳng vào khu Mường Thanh và từ đồi Độc Lập ra
thẳng sân bay, cắt đứt sân bay và đến sát khu trung tâm cách hầm tên tướng Đờ-cát
trên dưới ba trăm thước.
Trong một chiếc hầm đào sâu vào thành giao thông hào
(râu tôm) là nơi trú quân của tổ ba người Phụng, Lê, Tảo. Phụng đang nói lên từ
đáy lòng quyết tâm của mình, sau ngót một tháng trời liền đào trận địa. Đại đội
Phụng vừa hoàn thành xong trận địa xuất phát xung phong vào một đồn ở phía Đông
nhưng đêm đêm vẫn còn phải tiếp tục đào để củng cố các hầm tránh pháo và phải lát
một quãng dài bằng ván và đạn xi-tốc của địch ngay hàng rào chúng không đầy mười
thước, … Trong mấy đêm liền gay go, ác liệt đã có những chiến sĩ hy sinh. Nhưng
một người bạn mất đi đã làm sôi sục máu căm giận quân địch của hàng trăm đồng đội
khác. Chiến sĩ Hồng trẻ tuổi hôm trước ngã xuống tay còn nắm chặt cán xẻng. Đồng
chí Hai tổ trưởng nghiến răng tràn nước mắt nhìn Hồng trong ánh chớp khét lẹt của
những quả moóc-chi-ê địch vẫn điên cuồng bắn tới. Hai đau đớn như xé ruột. Hai ôm
ghì lấy Hồng: “Còn Hai, còn anh em, sẽ trả thù cho Hồng! …”. Rồi Hai lại bò lê
đầu gối đạp mạnh xuống những viên đất của Hồng vừa đào trong quãng hào còn chưa
được tiêu chuẩn. Lúc này Hai cũng không biết sợ là gì nữa. Lưỡi xẻng của Hai sắc
như dao lại tiếp tục xắn khoẻ hơn, nhanh hơn, … Không một ai chùn bước và nghỉ
tay. Hai anh lính mới đằng sau Hai bị mảnh đạn nhỏ vào vai và đầu, băng vội lại
rồi xin cho ở lại đào tiếp. Đồng chí trung đội trưởng đi lên xuống nhiều lần kiểm
tra động viên anh em, trong lúc đó, anh tiểu đội trưởng đã bị thương vào tay, còn
một tay vẫn cầm xẻng dậm chân đào, lại những mảng đất đổ lên bờ hào như người còn
rất khoẻ mạnh. Ngay gần đấy tổ ba người Phụng, Lê, Tảo cũng đang ra sức đào vượt
tiêu chuẩn đêm nay. Phụng thường nhắc tổ:
“Ta đào cố bây giờ cho sâu được ít nào là bạn ta ngày mai đây càng đỡ tốn máu,
thế là ta đã trả thù cho đồng chí Hồng rồi đấy!”. Cả ba người mải miết đào. Họ
muốn hô lên một câu, hát lên một bài thật mạnh, kiên quyết, nhưng vì phải giữ
bí mật nên lời hát của họ đã biến thành những tiếng xẻng xắn đất, tiếng đất đổ
lên đầu hào mỗi chốc thêm cao. Mồ hôi và sương đêm đã ướt đẫm lưng, trước ngực
và hai cánh tay áo của các chiến sĩ lúc nào không biết. Dứt những tiếng nổ
chuyển đất quen thuộc của loạt bom địch vừa thả ngoài cánh đồng cỏ cách hầm lớn
một trăm thước. Mảnh bom tới tấp đập vào những then gỗ to trên nắp công sự.
Phụng ngồi dựa vào tường hầm xinh xắn, vững chắc căng vải dù trắng toát, nói
tiếp: “Nhờ có Đảng lãnh đạo nên chúng ta đều từ những người cực khổ nhất nay
đã vùng dậy đánh kẻ thù, chúng ta ngày nay là những thanh niên sức có, tài có,
mỗi chúng ta đại diện cho gia đình ta, trăm vạn thanh niên ta, đại diện cho
nhân dân ta ra đây giết giặc. Bác và Đảng lại trao nhiệm vụ lịch sử cho bộ đội
ta ở đây thì chúng ta không thể nào trù trừ, lùi bước được. Chiến đấu, chúng ta
phải sẵn sàng hy sinh, huống hồ việc đào trận địa tuy có mệt mỏi, căng thẳng
nhưng có kể gì, miễn là ta chắc thắng để trả thù cho gia đình, cho nhân dân và
đồng đội ta, …”.
Đến lượt Lê nói. Lê mới mười tám tuổi, là lính mới, nhưng
buổi đầu Lê tỏ ra còn lo sợ, có hôm không dám đi đào. Lê thường ít vui ít nói.
Bây giờ Lê đã khác hẳn, Lê suy nghĩ kỹ và nói rất cảm động: “Các anh đã giúp đỡ
tôi rất nhiều, mới đầu tôi nghĩ mãi không ra, sau dần dần lời các anh tức là lời
của Đảng dạy dỗ, tôi cứ thấm mãi vào trong đầu óc tôi, hôm đi lấy gỗ, tôi nghĩ được
một câu, đêm trước đi đào nghĩ được thêm một câu, đêm sau tôi lại nghĩ ra câu nữa…”. Đến đấy Lê dừng lại nhìn anh
tổ trưởng, rồi nói tiếp bằng một giọng thiết tha hơn: Thế là tôi đã biết rồi,
ngoài ra lại được các anh chỉ bảo cách đào cách tránh đạn địch, … bây giờ tôi
nói câu nói của tôi to lớn lắm: “Mỗi bó cỏ của ta vác to thêm, mỗi nhát xẻng
của ta đào mạnh thêm sẽ làm cho mấy thằng địch phải lúng túng”.
Bom lại nổ rầm rầm ngoài cánh đồng có nắng chói. Đồng
chí tổ trưởng chỉ: “Kệ nó!”, rồi lại nói: “Phải rồi! Chúng ta không thể trù
trừ, chỉ có tích cực đem hết sức mình ra đào cho đúng yêu cầu của cấp trên thì
mới giành thắng giòn giã được”.
Những buổi sinh hoạt xây dựng
quyết tâm của tổ ba người thường như thế.
Mỗi câu nói của các chiến sĩ lúc này là định quyết tâm
liên tục của mình, là sức mạnh của hàng trăm nghìn nhát xẻng trong những ngày đêm
ở Điện Biên Phủ đang thắt chặt vòng vây lại.
Tin phát động quần chúng cải cách ruộng đất ở hậu phương
gửi tới tấp đến mặt trận càng làm cho các chiến sĩ nức lòng, quyết tâm xiết chặt
vòng vây! Mẹ già, em nhỏ ở nhà đã có bát cơm đầy, cái áo mới. Vợ anh đang ở trên
quãng đường phục vụ nào đó, …
Vừa đánh vừa đào liên tục, lực lượng ta luôn luôn được
bổ sung, xây dựng ngay trong từng đợt chiến đấu. Trong trận đánh, trên trận địa
là trường học rèn luyện các chiến sĩ mới.
Thời gian cuối đợt hai! Các mũi giao thông hào của ta
từ các đồi D, E phía Bắc sân bay mỗi đêm lại tiến dần về phía địch. Nếu đứng trên
đồi D hay đồi Him Lam mà trông thì thấy tất cả những đường giao thông của ta từ
trong núi đổ ra, chạy tua tủa xuống cánh đồng, rồi đổ dồn vào các khu trung tâm.
Đất đồi và ruộng Mường Thanh đỏ ối, hố bom đỏ, không còn thấy những thân cây nào
nguyên lành nữa. Các chiến sĩ xem truyện Thượng Cam Lĩnh tán với nhau: “Chúng
mình cũng có thể theo đòi các đồng chí Chí nguyện quân ở Thượng Cam Lĩnh được rồi
đây. Một nắm đất ở dưới chân đồi D bốc lên thế nào cũng có một phần thép”. Dưới
bầu trời xanh rộng bao la của Điện Biên Phủ, giao thông hào của ta phơi ra đỏ ối,
nguỵ trang không xuể nữa và cũng không còn một đám cỏ để nguỵ trang, những chiếc
máy bay “bà già” của địch đã đến lúc hết tác dụng vì thế mà đàn máy bay khu trục
của địch trở nên mù mắt. Chúng quăng bom la liệt, chỉ làm cho những cánh đồng
thêm loang lổ đất đỏ, những quả đồi thêm trơ trụi, …
Từ giữa đợt hai, các cỡ súng của ta trên các trận địa
bao vây kề gần cổ địch. Địch càng giãy giụa ta càng quyết tâm giữ vững và lấn từng
thước đất. Trong tình hình ấy một thước đất thật là quý. Ta chiếm được thêm đất
tức là ta uy hiếp, kiểm soát thêm được cả một khoảng trời. Tiếp tế của địch càng
bị hạn chế, đồ hộp, đạn, … càng rơi nhiều sang trận địa của ta. Nhưng chính vì
thế nên bọn địch không chịu, tình hình trở nên gay go ác liệt. Ngày nào địch cũng
cho quân kèm xe tăng ra lấp lại giao thông hào, gài mìn xuống hoặc tổ chức đánh
chiếm lại hay liều lĩnh ra ngay trong đêm hòng phá hoại những cuộc đào trận địa
của ta. Đêm đêm nhất là lúc chập tối và khoảng gần sáng là trọng pháo của địch
lại loè lên những ánh chớp liền liên rồi tiếp theo đến những tiếng nổ liên tiếp
dội về từng loạt. Các cỡ súng khác có thể bắn được là chúng bắn lia lịa ra ngoài
đồn để hòng làm cản trở những lưỡi xẻng của quân ta. Nhưng ta thì cương quyết lấn
từng bước giao thông hào và cương quyết giữ lấy nó.
Sáng hôm ấy, một đơn vị của ta vừa hoàn thành xong hơn
một cây số giao thông hào cắt đôi sân bay của địch. Các chiến sĩ khoan khoái giũ
đất trên vai xuống đang vác xẻng ra về thì có tiếng xe tăng ken két tiến tới.
Trong sương mù dày dặc, hai tiểu đoàn Âu Phi hùng hổ tiến bằng ba mũi từ Mường
Thanh tới định chiếm lại trận địa ta. Tất nhiên là ta không thể nào để mất được,
đại bộ phận đã rút, chỉ để lại một bộ phận nhỏ. Tiểu đội Dũng phụ trách mặt chính
ở đây. Trong tiểu đội có Xuyến là lính mới, ném lựu đạn và bắn tiểu liên chưa
thạo. Biết địch tiến đến, Xuyến chạy ngay đến chỗ tiểu đội trưởng: “Báo cáo, tôi
đánh được, tôi quyết tâm giữ vững trận địa ta, tôi sẽ chiến đấu đến cùng”.
Anh tiểu đội trưởng cười nhìn Xuyến định nói “Cậu ném
lựu đạn chưa thạo, thì đánh thế nào?”. Nhưng Xuyến kiên quyết nói ném được, đánh
được. Xuyến mới mười tám tuổi, dáng người nhỏ và chắc. Mắt Xuyến rất sáng, long
lanh nhìn về phía địch, tay vẫn đang xoáy mở nắp lựu đạn.
Trong khi nổ súng, Dũng dặn thêm Xuyến: “Nếu tôi và
anh Đỗ có bị thương hay hy sinh thì Xuyến cứ tự động tác chiến, nếu cần thì
thay tiểu đội trưởng chỉ huy anh em cũng được, miễn đừng để mất giao thông hào
này, tốn công, tốn sức lắm đấy”. Xuyến nắm chặt lại chuôi quả lựu đạn, nhìn Dũng.
Vẫn đôi mắt long lanh, Xuyến hứa: “Tôi sẽ quyết tâm làm được”.
Qua đợt đầu tác chiến, tiểu đội trưởng Dũng và tiểu đội
phó Đỗ bị thương và hy sinh, tiểu đội còn bảy người. Đó là mặt chính của trận địa
và bảy người còn lại của tiểu đội Dũng cũng là lực lượng chính lúc ấy. Thương mến
anh Dũng và Đỗ, căm giận quân thù, Xuyến chỉ nghĩ làm thế nào để giết được chúng.
Trong tình thế nao núng, bọn địch đội mũ nồi vàng và mũ sắt lổm ngổm bò tới,
a-la-xô ầm ĩ nhưng chưa thằng nào dám a-la-xô thật.
Xuyến hô lớn: “Anh em cùng tôi ném lựu đạn đi!”. Quả
lựu đạn của Xuyến nổ trúng giữa đám địch cùng với sáu quả nữa. Tiếng lựu đạn chưa
dứt, Xuyến đã ghì tiểu liên bắn hết một băng. Những thây giặc ở hàng đầu đang
nhổm lên định chạy tới bị ngã lộn nhào, Xuyến sung sướng hét lớn: “Bắn nữa đi,
nhằm những thằng mũ vàng kia kìa”. Tiếng súng trường, tiểu liên tập trung nổ giòn
giã. Lại một loạt địch nữa nằm chết dí. Chúng vẫn chưa chịu, hai đợt xung phong
tiếp nữa của chúng đều bị những quả lựu đạn cuối cùng của bảy chiến sĩ đánh
lui. Chiếc xe tăng liều đến gần nhất bị Đ.K.Z ta bắn thủng bốc cháy. Xuyến lại
hò anh em ném lựu đạn truy thêm vào bọn địch đang luống cuống bỏ chạy.
Thế là hai tiểu đoàn địch bị đánh bật. Chúng phải để lại
hơn trung đội xác chết và chiếc xe tăng cháy vỡ.
Sau trận này chiến sĩ Xuyến được thăng lên tiểu đội phó
và được đại đoàn tặng thưởng huân chương chiến sĩ hạng ba.
Còn nhiều trận khác tương tự như thế. Trận địa ta không
thể mất được. Có lần địch mang máy bay ném bom na-pan xuống, chất dầu đặc cháy
trùm lên công sự, đá và đất cũng bốc lửa, dĩ nhiên là người ở đó cũng bốc lửa.
Nhưng con người chiến sĩ bảo vệ trận địa lúc ấy mặc cho lửa cháy trên người, đồng
chí bắn súng máy vẫn ghì chặt súng nhả đạn vào đám địch đang lợi dụng những đám
khói xông lên. Chúng đã tưởng quân ta bị thiêu sạch nhưng trên trận địa chiến sĩ
ta dù bỏng nát da thịt vẫn còn đủ hai bàn tay cứng rắn và đôi mắt nguyên vẹn để
bắn súng và xem xét địch. Vì thế liên tiếp hết đợt này đến đợt khác, bọn địch
chỉ bỏ xác vô ích.
… Lại có những trận công kiên ta mới chiếm được nửa đồn
C.1, trận địa giao thông hào của ta lại tiếp tục lấn, bò dần nối liền với giao
thông hào địch. Các chiến sĩ được nhận nhiệm vụ phòng ngự ở đây đã tranh thủ củng
cố trận địa lấn từng tấc đất và giữ chắc lấy nó suốt năm, sáu ngày đêm liền để
tạo điều kiện chuẩn bị cho trận đánh tiêu diệt toàn C.1.
Một trong những chiến sĩ số 1 bảo vệ trận địa trên đồi
C.1 là đồng chí Nguyễn Văn Hải, sau trận đồi D là chiến sĩ, bây giờ là tiểu đội
trưởng vững vàng. Đồng chí Trần Niệm, một chiến sĩ đã nhiều tuổi, gan dạ vô cùng.
Hai chiến sĩ vừa từ ở trận địa về đường hào chỉ huy sở của đại đoàn để báo cáo
với Bộ Tư lệnh. Trông hai đồng chí bên ngoài khác hẳn nhau. Hải thì còn trẻ măng,
rất vui, linh hoạt, nhanh nhẹn. Niệm thì nước da đen xám, ở lâu ngày trên trận địa
nên bộ râu đã có thể lấy vuốt xuống được. Nhưng về ý chí căm thù quyết tâm giữ
trận địa thì hai người như một.
Quên ngủ và nghỉ, các chiến sĩ mắt không rời địch, tay
không rời lựu đạn và súng, tai lắng nghe từng tiếng động nhỏ, lúc nào cũng sẵn
sàng đánh bật tất cả những đợt phản kích của địch. Địch chỉ cách từ sáu đến mười
thước. Niệm đã nói với cán bộ: “Chết tôi cũng giữ bằng được!”. Đêm thứ ba rõ
ràng Niệm nghe thấy tiếng sột soạt, tiếng cây gãy. Cũng như mọi lần, Niệm ném
ngay lựu đạn. Một quả lựu đạn của địch cũng vừa rơi tới, hai tiếng nổ một lúc.
Máu trên đầu Niệm toé ra, đổ xuống khắp mặt. Kệ máu! Niệm ném liền hai quả lựu
đạn nữa tới phía tiếng động. Trong bóng tối loé sáng, hai vệt lựu đạn nổ. Niệm cho rằng những tên địch nào đó nhất định
đang giãy chết, chúng mày đừng tưởng bở, dễ dàng mà chiếm được một thước đất
của tao. Niệm lại đoán nó có thể hoảng sợ rút về nên ném vọng xa hơn hai quả
nữa đến chân cột cờ. Mắt hoa đầu buốt, Niệm nhờ anh em băng lại hộ rồi tiếp tục
đứng ở vị trí cũ.
Trong khi Hải ở ngay bên cạnh, lựu đạn địch quăng tới
nổ từng chập, Hải đã mấy ngày mấy đêm không ngủ vẫn xung phong đứng gác ở phía
ngoài. Lệnh của đại đội cần người bắn xi-tốc. Hải không biết bắn nhưng đối với
Hải không có việc gì chịu bó tay cả. Hải tìm đến một đồng chí biết bắn, vào hầm
học nửa tiếng, rồi ra xin đảm bảo bắn được ngay.
Sáng nay Hải lại trở thành một chiến sĩ bắn xi-tốc giỏi,
những quả đạn xi-tốc đầu tiên của Hải bắt đầu nổ tung vào chiến hào của địch. Dần
dần Hải đã bắn là trúng, hai mươi lăm phát xi-tốc của Hải nổ dồn dập làm cho lũ
địch rất hoảng sợ, ít nhất là có trên mười đứa chết và bị thương, chúng không dám
hoạt động gì nữa. Hải vừa bắn lại vừa di chuyển vị trí nên hoả lực cầu vồng địch
bắn lại đều vô ích. Hải say sưa bắn không biết mỏi. Bên cạnh Hải luôn luôn có
ba khẩu súng tốt nhất: tuyn, xi-tốc, súng trường tự động, tuỳ từng lúc dùng mỗi
thứ rất linh hoạt. Lúc Hải vừa bước lên bậc giao thông hào để thay Niệm bắn vào
những đầu mũ sắt địch nhấp nhô trước mặt là lúc Niệm vừa bị thương, tay Hải đã
vòng sẵn vào dây lựu đạn ném tung về phía địch. Chúng nó kêu hoả lực che chở, Hải
càng ném khoẻ. Lựu đạn của Hải dội đúng vào chỗ ngã ba, ngã tư giao thông hào làm
số địch bị thương càng nhiều hơn. Hết đợt đó, Hải lại giương súng trường tự động
nện luôn mười phát, súng giật đau ê vai nhưng vẫn sướng. Không bỏ lỡ thời cơ, Hải
lại dùng xi-tốc bắn ba quả vào chân cột cờ. Tiểu đội phó Thanh lên thay Niệm bảo: “Nó bị bật hẳn rồi, xi-tốc cậu hay lắm!” Các tổ đằng sau tiếp thêm cho Hải lựu
đạn, nhắc thêm quyết tâm tin tưởng cho Hải.
Quân địch dù liều chết, phản kích ra liên tiếp, dù chúng
hung hăng dùng súng phun lửa, súng bắn lân tinh của Mỹ, nhưng trận địa ta vẫn
không hề lay chuyển, vẫn tiếp tục uy hiếp siết chặt vào cổ họng địch. Ngay ở vị
trí phòng ngự, Hải nhặt những mảnh giấy trắng tinh trong hầm địch, dùng bút máy
đỏ viết rất nhiều khẩu hiệu dán la liệt vào thành hào và cửa hầm; Hải còn đưa
cho cán bộ, nhờ phân phát cho các tổ khác. Đọc những dòng chữ của Hải: “Quyết
tâm giữ vững trận địa, kiên quyết tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ!”. Anh em đều cảm thấy trên trận địa này có một niềm tin tưởng vững chắc như
thế nào? Đồng chí tư lệnh trưởng bắt tay các chiến sĩ, thân mật nói: “Các đồng
chí hoàn thành nhiệm vụ giữ vững đồi C trong một hoàn cảnh gay go, khó khăn nhất.
Kẻ địch không thể đánh lùi chúng ta được nữa rồi. Mai đây diệt đồi C tiêu diệt
toàn bộ địch ở Điện Biên, các đồng chí đã góp vào đó một phần công xứng đáng. Các
đồng chí là những chiến sĩ số 1 trên chiến luỹ Điện Biên Phủ lịch sử này”.
Để bảo vệ cho những cuộc đào trận địa còn có những chiến
sĩ chỉ một mình xông lên sát hàng rào địch nằm xuống một hố nhỏ chuẩn bị ngót hàng
trăm lựu đạn ném vào hoả điểm địch, ném chặn không cho chúng tiến ra ngoài hòng
phá cuộc đào trận địa của ta. Vẫn đồng chí Hải đã có lần bám sát hàng rào địch
chiến đấu đánh bọn phản kích đến cùng cho đồng đội bên ngoài đào. Hải đã ném hết
hàng chục quả lựu đạn, một viên đạn bắn thủng bên mạng sườn, Hải không biết đau.
Nghiến răng lại, Hải tiếp tục ném lựu đạn vào bóng những tên địch thập thò ra
khỏi công sự, … Mãi tới sáng khi trận địa xuất phát xung phong ta đã hoàn thành,
Hải mới quay về với tiểu đội.
Trong nhiệm vụ này các đồng chí
quân báo đã đóng một vai trò quan trọng. Tổ quân báo Trần Văn Lư đã có nhiều đêm lọt qua
sáu, bảy hàng rào địch, nhảy hẳn vào giao thông hào đầu tiên của địch chiếm giữ
lấy, dùng lựu đạn, trung liên đánh cản không cho tên nào thò ra. Trong khi đó
bộ đội ta rất yên trí khoét sâu thêm đường hào, cắt đôi sân bay – là dạ dày
sống còn của địch.
Việc làm đó không phải dễ dàng, địch đã trút tất cả hoả
lực trong cứ điểm vào đường hào xuất hiện của quân ta, nhưng vì hoảng sợ, rối
loạn nên đạn chỉ rơi ra ngoài, … Đồng chí Lư gan dạ đã nhiều lần xông sát vào đồn
địch bắt sống địch lấy tài liệu. Trước tình hình và nhiệm vụ quan trọng đó các đồng
chí quân báo dũng cảm chẳng hề sờn chí.
Điều này tôi mới cảm thấy. Những cảm giác ấy đã sôi sục
trong người tôi. Có lẽ tôi thấy còn ít quá. Nhưng những điều tôi thấy là một sự
thật trong sáng, sâu sắc và đẹp vô cùng. Một buổi chiều dày sương lam. Trên đường
ra trận địa một đoàn người trẻ lắm chạy phăng qua các giao thông hào đi ra, có
những anh chàng còn bé loắt choắt. Đây những đôi má nâu hồng đỏ căng, đây những
môi cười và những hàm răng trắng long lanh, đây những đôi mắt tròn xanh biếc. Họ
mặc quần áo đủ kiểu, áo trấn thủ, áo nâu, đeo ba lô da, đeo túi dết, họ đi dép
hoặc đi chân đất. Họ đi vùn vụt và theo họ có một tiếng ào ào như một luồng gió
mạnh thơm phưng phức, có những tiếng hát lẫn theo tiếng thở nhưng nghe say sưa
lạ.
Có ai hỏi: Đi đâu đấy?
Từ những miệng tươi trả lời nhiều cách:
- Ra tiền tuyến!
- Đi làm nhiệm vụ!
- Phen này mới được gặp nhau với chúng nó đây!
- Xem bọn tôi đi chiến đấu được không?
- Còn đi đâu nữa!
- Đi đến chỗ mà tôi thích nhất!
Tôi muốn nói những người ấy đây! Những thanh niên của
thế hệ mới. Những cháu ngoan yêu và anh dũng của Bác Hồ! Họ ở đâu ra? Hồi Cách
mạng tháng Tám, họ còn là những trẻ em nghèo khổ đi chăn trâu, cắt cỏ, đi ở cho
nhà địa chủ, sống trong nước mắt và roi vọt, bơ vơ, không được biết đến chút tình
thương yêu đầm ấm. Cách mạng đến họ chỉ biết nghe “thấy nói Việt Minh đánh Tây,
đánh Nhật, thế là thày mẹ đi lấy thóc về ăn và từ đấy thấy thày mẹ vui, khỏi bị
đánh đập”. Cũng có những người đã là thiếu nhi liên lạc cho cán bộ, cho uỷ ban.
Họ ở đồng ruộng, sinh ra, lớn lên, phơi phới một niềm vui sống nhưng bị chèn ép
từ bao lâu nay như những đoá hoa nở tung ra.
Họ ở các đội thanh niên xung phong công tác được giáo
dục yêu nước và căm thù địch, được rèn luyện trong tập thể, trong lao động, nay
họ ra tiền tuyến giết giặc. Lịch sử chiến đấu của họ tuy ngắn ngủi nhưng sáng tươi,
anh dũng lạ thường. Họ chưa nói tiếng anh hùng nhưng mầm anh hùng của họ lành mạnh
và nở rất nhanh! Có anh mới đeo súng năm ngày, khi đánh thọc sâu ôm bộc phá không
biết giật đòi tiểu đội trưởng: “Bảo tôi cách, tôi lên giật ngay”. Họ học ngay
trên chiến trường! Có anh mới tới đơn vị buổi chiều, chưa biết thắt lưng đạn,
tối đã theo bạn ra trận đào công sự. Không có xẻng lấy tay bốc đất thay xẻng.
Thỉnh thoảng lại nhảy lên mặt đất đòi cán bộ chỉ cho biết xem địch nó bắn thế nào? Xem địch bắn xong có anh ngây thơ phân tích: “Nó bắn khác mình, nó không tiếc
đạn, nó bóc lột nhân dân Pháp, Mỹ và nhân dân ta trong vùng tạm bị chiếm lấy đạn
bắn. Ta bắn đạn của nhân dân, ta bắn ít mà nhiều thằng chết”.
Họ có những kinh nghiệm rất thiết thực:
- Kinh nghiệm là trông thấy địch mà bắn được là phấn
khởi.
- Kinh nghiệm là không học thì cho là khó, học biết rồi
thì cũng dễ, chỉ cần dũng cảm thực hiện.
* * *
Đời sống chiến đấu khẩn trương,
tập thể có Đảng lãnh đạo và giáo dục, đã từng rèn luyện bao nhiêu thanh niên
trước đây đã có nhiều anh vào bộ đội còn nhặt vỏ đạn đút túi chơi, đi tập thì
cấu hoa giắt vào mũ, vào làng chỉ đi múa hát với thiếu nhi, về đơn vị thì làm
nũng cán bộ. Qua một thời gian nay đã là tiểu đội trưởng “tý hon”. Những trung
đội trưởng, đại đội phó trẻ măng trên dưới hai mươi tuổi, luôn luôn bận rộn,
rất giàu kinh nghiệm chiến đấu và tri thức quân sự. Có những anh khi đánh nhau
nhảy vào nắm nòng súng địch, bé loắt choắt mà dùng báng súng đánh chết địch,
gãy hai chân còn tiếp tục bắn súng, ném lựu đạn; có anh vì pháo địch nổ đến
ngã vật ra còn nhỏm dậy tiếp tục chiến đấu như không có việc gì xảy đến. Họ
biết căm thù địch quyết liệt lại biết thương yêu bạn đồng đội rất sâu sắc; có
anh khi đưa bạn đồng đội cáng bị võng xuống liền cúi người xuống dưới cáng lấy
lưng đỡ lên cho thẳng, máu bạn đồng đội thấm sang người anh càng nuôi thêm mãi
chí căm thù.
* * *
Ý nghĩ của họ rất giản đơn, thẳng thắn.
Anh Xuyên, một thanh niên trong vùng tạm bị chiếm mới
vào bộ đội ba hôm, đánh một trận và hiện nay là tiểu đội phó, hỏi tại sao anh vào
bộ đội, anh nói một mạch không nghĩ: “Vào để giết giặc, làng tôi bị địch san
phẳng chết hơn một trăm người, trong làng không ai không đội khăn trắng. Anh tôi
đi bộ đội rồi, bố mẹ tôi địch nó càn lên bốt, tôi về làng bây giờ chán lắm, tôi
nghĩ muốn mau gặp bố mẹ thì phải giết giặc! Lắm lúc cũng thương bố mẹ già lắm,
nhưng lại thấy thương thì phải chiến đấu giết giặc”. Hồi khi mới vào đánh nhau
anh thấy thế nào? Có sợ không? Anh trả lời: “Lúc đầu cũng hơi bỡ ngỡ, nhưng
khi thấy rằng sắp được trông thấy giặc và được trực tiếp giết nó thì thích lắm.
Súng càng nổ nhiều càng phấn khởi, tôi chỉ học qua cách bắn, tôi bắn được hai băng
tiểu liên và ném vô số lựu đạn, thích lắm”. Hỏi anh có ý nghĩ gì về sự hy sinh,
anh hồn nhiên trả lời: “Chết là thường, mình chết một, nó chết mười. Mình chết
là vinh dự, là vì nhân dân, mình chết vì nhân dân mới sống. Chiến đấu thì phải
hy sinh, sợ hy sinh thì chỉ có nô lệ”.
Hỏi anh làm công sự có mệt không? Anh cũng thản nhiên
phân tích: “Mệt là thường! Từ bé tôi lao động quen rồi, đi bừa từ còn bé,
chuyên môn phải vác bừa ngược, lao động là vinh quang!”.
Anh còn kể thêm: “Tôi đã học bốn tháng tài liệu phát động
quần chúng, tôi đã tố khổ với các anh chị em khác. Đời tôi khổ, mà nhiều anh chị
em khác cũng khổ quá, học xong, tình thương yêu giai cấp được nâng cao!”.
Một thanh niên học sinh lớp bảy tâm sự thế này: “Khi đi
học thì mơ màng nhiều về sự nghiệp, lo lắng nhiều thứ cho cá nhân, gia đình. Bây
giờ trực tiếp ra tiền tuyến tự nhiên thấy các thứ ấy vô nghĩa, con người giản đơn
đi, thấy được sống rất mạnh mẽ, vinh quang, thấy thấm thía rằng sự nghiệp cao
quý nhất là được trực tiếp chiến đấu bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân”.
* * *
Đời những thanh niên hăng hái có ba cái thú vị nhất :
một là được chiến đấu giết giặc, hai là được rèn luyện nâng cao tư tưởng, ba là
được trở thành người đảng viên Đảng lao động tiền phong trong cuộc đấu tranh cách
mạng. Họ luôn luôn nghĩ đến Hồ Chủ tịch. Anh học sinh ghi trong nhật ký “bền
gan chiến đấu với gian lao, khổ sở. Luôn nghĩ đến Bác Hồ là nguồn sinh lực để
thúc đẩy ta”. Các anh khác có dịp là hỏi thăm sức khoẻ Bác Hồ, ghi được thành tích
là nghĩ ngay “chắc Bác vui lòng”, hay hỏi cán bộ: “Bao giờ Bác đến thăm đơn vị
ta?”. Họ thật là một thế hệ vinh quang và mạnh mẽ. Đời sống hàng ngày của họ đã
vẽ nên những nét sống huy hoàng biểu hiện một sức mạnh lấp biển và trời. Ý nghĩ
của họ tuy giản đơn nhưng đều là ý nghĩ trong lành, cao cả biểu hiện cho cả một
đạo đức cách mạng mới, một nhân sinh quan mới.
Chính Hồ Chủ tịch, Đảng, Cách mạng tháng Tám và quân đội
đã cải tạo nên họ và sẽ đưa họ tới những tương lai vô cùng sáng lạn. Hiện giờ họ
đang đem cả một sức mạnh mới, một tâm hồn mới tươi sáng ra tiền tuyến, đổi gian
khổ, hy sinh lấy thắng lợi, lấy tương lai cho họ và nhân dân! Những lực lượng ấy
phải được tổ chức lại, được giáo dục, rèn luyện, được phát huy lên. Đó là tinh
tuý của nhân dân, của cách mạng. Tôi thiết tưởng các cấp Đảng uỷ, các cán bộ cần
thấy rõ sức mạnh đó, cần thấy trách nhiệm của mình trong việc vun trồng các sức
mạnh dồi dào vô tận ấy.
Đợt tấn công cuối cùng thắng lợi
Ai đã dự chiến dịch Điện Biên Phủ không thể nào quên được
những ngày đầu tháng 5, phấn khởi nhưng căng thẳng chung quanh cánh đồng Mường
Thanh. Cảnh tượng chiến trường nhiều biến đổi, đặc sắc khác nhau. Buổi sáng sớm
còn mờ đất, khi các chiến sĩ đào công sự suốt đêm đã về hết, khắp cánh đồng những
dãy giao thông hào ngang dọc đen ngòm, những hố bom đạn pháo nham nhở, nằm im lìm
vắng lặng. Những con chim đêm chập choạng bay lặng lẽ gieo thêm vẻ thê lương.
Thỉnh thoảng một quả pháo nổ rời rạc của địch nghe chán chường, tuyệt vọng. Trên
các đường giao thông hào, thấp thoáng từng tốp chiến sĩ cấp dưỡng hoặc chiến sĩ
vận tải yên lặng, cần cù, đem cơm đem đạn ra phía trận địa phòng ngự. Trong hầm
những trận địa súng cối, các chiến sĩ mới tỉnh dậy còn khoác chăn ngồi khe khẽ
hát, ngâm thơ, thỉnh thoảng lại hỏi vọng ra ngoài giao thông hào “cậu nào đấy”
hoặc “cấp dưỡng đơn vị nào đấy”. Rồi chẳng đợi người ta trả lời, lại tiếp tục
ngâm thơ. Bên lề suối hoặc những hố bom lớn, sâu, nước đã đọng thành ao, một số
chiến sĩ đang rửa mặt, xách nước. Ở những trận địa phòng ngự, công việc chuẩn bị
một ngày chiến đấu bắt đầu. Ở đây cuộc sống thật đặc sắc : mũ sắt làm chậu
thau, vỏ đạn làm ống nước, hòm đạn làm ghế ngồi, vải dù làm rèm cửa. Mỗi buổi sáng,
người ta kiểm điểm cơm nước và thỉnh thoảng trước khi làm việc đó, có anh cán bộ
hay đem súng cối nhỏ ra bất thình lình câu vài quả vào bọn địch đang nháo nhác
lấy nước! Các tổ bắn tỉa chia nhau đi hoạt động, vội vàng đặt kế hoạch thi đua,
…
Chiều đến, ánh sáng mặt trời sắp tắt thì không khí lại
tưng bừng hẳn lên. Mấy chiếc máy bay lượn trên không cao tít, còn cố bỏ “vớt” mấy
quả bom vu vơ. Pháo trong đồn dồn dập bắn ra liều lĩnh khó chịu. Nhưng từ các
ngả rừng hàng đoàn chiến sĩ ta đang nhộn nhịp khênh gỗ, vác xẻng theo các đường
giao thông hào đổ ra tiến về phía Mường Thanh. Không cười nói ồn ào. Nhưng vẻ đi
đứng dáng mặt nhìn đều gây nên một không khí nhộn nhịp. Hình như mọi người đều
không để ý đến các thứ tiếng nổ. Ai nấy chăm chú đi nhanh. Các bếp đều ồn ào có
nơi còn giết bò, có nơi chẻ củi, có nơi dọn dẹp làm vệ sinh. Ở các hầm xa xa,
anh em yếu mệt ở nhà, đang vừa xỉa răng vừa đọc báo, có anh vót tăm, có anh dán
lại một số khẩu hiệu, …
Cảnh sống tưởng chừng như dĩ
nhiên như vậy từ trước và chưa có gì thay đổi vội vàng. Đó là một cảnh sống
bình thường, đều đặn. Nhưng mỗi ngày lòng người ta lại thắt lại. Một vài đồng
chí đi đào trận địa hy sinh không trở về, các trạm quân y vẫn tiếp tục đón thêm
người bị thương. Tin tức về sự nguy khốn của địch ngày càng rõ, số hàng binh và
anh em ta bị tù trốn ra ngày nhiều.
Suốt trong thời gian này ta với địch giành nhau từng tấc
đất. Sau đợt tấn công thứ hai, ta tiêu diệt đồi D, E, đồi C nhưng không thành công
ở đồi A và đồn phía Bắc sân bay Mường Thanh trong những ngày 1, 2, 3 tháng 4 năm
1954. Địch ra sức củng cố công sự, tăng cường tiếp tế, đêm đến nhảy dù tiếp viện
trộm. Đến ngày 18-4 thì địch không sao giữ nổi được cánh đồng phía Bắc sân bay
nữa vì từ phía Tây và phía Đông ta đã đào trận địa thọc ngay vào sân bay, cắt đứt
đường tiếp tế của đồn phía Bắc sân bay rồi. Chúng ta đã diệt toàn bộ quân địch
khi chúng rút lui. Sau đó ngày 22-4 ta lại tiếp tục đánh lấn chiếm đồn 206 và đánh
một trận phản kích ác liệt liền hai ngày hai đêm ở phía Nam đồn 206, đánh bại tất cả những cố gắng cuối cùng của địch.
Ta tiến thêm một bước nữa và chiếm hết sân bay.
Từ đó dù tiếp tế của địch lạc ra ngoài càng nhiều. Những
cuộc đánh lấn, đánh tỉa của ta ngày càng dồn dập.
Các chiến sĩ chú ý nghe tin hội nghị Giơ-ne-vơ. Trời bắt
đầu nóng. Chờ đợi một lệnh quyết định.
Nhưng các chiến sĩ chưa biết ở chỉ huy sở Bộ Chỉ huy
chiến dịch, đồng chí đại tướng đang bắt tay các cán bộ cao cấp: “Chúc các đồng
chí thắng lợi để hưởng ứng hội nghị Giơ-ne-vơ” và lệnh tổng công kích đã được các
cán bộ cao cấp chuyển về mặt trận.
* * *
Đêm mồng 6-5-1954, một đêm lịch sử của chiến dịch lịch sử. Lúc này, không kể Hồng Cúm,
riêng Mường Thanh, sân bay của địch đã hoàn toàn bị ta chiếm giữ. Địch chỉ còn
co lại trong phạm vi dài chừng một cây số tám trăm thước. Máy bay địch muốn thả
dù phải bay chéo và phải lượn rất nhỏ. Địch đóng dúm lại trong chừng gần ba mươi
cái đồn nhỏ xít với nhau.
Đêm nay ta công kích từ hai phía lại. Mặt Đông (phía đông
con suối Mường Thanh) ta đánh đồi A – nơi mà trong đợt tấn công thứ nhì địch đã
dốc toàn lực liều chết giữ trong bốn đêm ngày để níu lấy cái sống cuối cùng:
ta đánh đồi C1 và C2 ở phía Bắc đồi A, ta lại đánh vào đồn 505, 506 và hai đồn ở
đất bằng gần bờ suối và ở ngay chân đồi C. Nếu ta lấy đồi 505, 506 rồi lấy nốt đồi
507, 509 thì quân ta chỉ còn cách chỉ huy sở địch có một cái cầu và hơn một trăm
thước.
Mặt Tây ta đánh Nà-noọng ở sát ngay trận địa pháo của
quân địch, chúng gọi đó là đồn “Con ngươi”.
Trong các giao thông hào tiến về phía địch, không có đoạn
nào không nhuộm máu hy sinh của các chiến sĩ ta. Trong những giờ phút hấp hối, địch
đối phó hết sức quyết liệt, bao nhiêu súng đạn chúng tập trung dội vào hết các đầu
giao thông hào của ta, những đường giao thông hào mà đã hàng tháng nay ta chuẩn
bị. Chúng thu vét từng trung đội, từng tiểu đội liều mạng liên tiếp phản kích các
đơn vị ta đánh vào.
Nhưng quyết tâm của Hồ Chủ tịch, Đảng, Chính phủ và Bộ
Tổng tư lệnh đã thấm vào tim gan cán bộ và chiến sĩ ta ở Điện Biên Phủ rồi. Chỉ
trong hơn một tiếng đồng hồ, ta đã hạ xong đồn Nà-noọng ở phía Tây. Và đến một
giờ sáng ta làm chủ đồi A (đồi số 5) đến sáng rõ thì ta chiếm xong đồi C (đồi
Châu Ún).
Trong mỗi trận các chiến sĩ ta đã phải chiếm đi chiếm
lại nhiều lần từng lô cốt, từng khúc giao thông hào với địch. Pháo địch bắn không
tiếc đạn.
Trận đánh 506 diễn ra ác liệt và dai dẳng. Địch đã tiếp
viện phản kích tới ba lần. Ta cũng đã tiến công vào ba đợt nhưng chúng vẫn cố
giữ vững chỉ huy sở của chúng. Đồn 506 ở ngay dưới chân đồi C. Quân địch đi tiếp
viện cho đồi C bị đánh bật lại cũng xô cả vào đồn 506. Đã 5 giờ sáng mà đội dự
bị của ta chưa điều vào kịp. Đồng chí Thiết Cương tiểu đoàn trưởng đã nhảy vào đồn
từ nửa đêm, cùng ba cán bộ đại đội và bốn chiến sĩ vẫn bám sát lấy chỉ huy sở và
đánh bật nhiều đợt phản kích của địch.
Nếu không kiên quyết đánh chiếm được đồn 506 này thì địch
còn có chỗ dựa để phản kích lại đồi C và đồi A, chúng còn giữ được một địa phận
đủ tiếp tế. Nếu ta lấy được thì đồi C và A sẽ chiếm giữ vững vàng bóp chẹt hẳn
quân địch lại trong phạm vi mấy trăm thước và như thế là tạo điều kiện đầy đủ để
chiếm lấy bờ suối, đầu cầu, đánh thọc vào chỉ huy sở tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Chính vì thế đại đoàn đã đình chỉ cuộc tấn công ở 507, chuyển đội dự bị ngay
sang cho 506.
Đồng chí Thiết Cương hiểu rõ thế. Thấy một vài đồng chí
tỏ vẻ lo ngại, đồng chí liền thu thập lựu đạn tiến lên hàng đầu và kêu gọi: “Tất
cả đảng viên lao động và những người chiến sĩ dũng cảm theo tôi!”. Đồng chí đã
tự tay ném lựu đạn điều khiển từng người chiến đấu ; ném một lúc hơn bốn mươi
quả lựu đạn. Đúng 7 giờ sáng ngày 7-5, đội dự bị đã tiến vào kịp, ta mở một cuộc
tấn công mới mãnh liệt, bắt sống nốt tên chỉ huy và đám tàn quân còn lại ở đồn
506 cũng như đám tàn quân ở đồi C chạy xuống. Các trận chiến đấu đều kết thúc
thắng lợi. Pháo binh địch ngày càng yếu ớt, chỉ còn như những tiếng ho khủng khẳng
của kẻ sắp qua đời.
Ngày 7-5 là ngày cuối cùng của Mường Thanh mà cũng là
ngày khủng khiếp nhất cho quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ. Sương mù lạnh lẽo đè nặng
trên khắp cánh đồng. Mường Thanh co rúm lại, run rẩy trước nhịp pháo binh cầm
canh của ta. Quân địch cố bám lấy những giờ phút cuối cùng. Từng đợt máy bay liên
tiếp từ Hà Nội bay lên, từ Thượng Lào bay tới, vội vã trút bom, trút đạn. Cao xạ
của ta hoạt động mạnh. Những máy bay bay có vẻ lẻ loi, lơ láo, không có một hành
động gì của bộ binh phối hợp nên trông chểnh choảng như những chiếc lá vàng vô
duyên gặp gió vậy.
Trên toàn mặt trận bề ngoài coi có vẻ yên tĩnh, nhưng
sự thật thì trong các giao thông hào, các hầm của trận địa ta đang rạo rực. Tin
tức thắng trận từ các mặt trận truyền đi dồn dập. Các đơn vị tới tấp chấn chỉnh
đội ngũ chờ lệnh. Các chỉ huy sở tấp nập, bận rộn để quyết định một kế hoạch tấn
công liên tiếp.
Trên các đài quan sát tin tức về địch báo cáo liên tiếp.
Trên các ngả đường, việc tiếp tế đạn được, việc tải thương binh, việc điều quân
rầm rộ. Tất cả mọi người đều sẵn sàng chờ đợi quân địch giẫy chết bằng những loạt
máy bay thật nhiều, thật tàn bạo. Nhưng một luồng phấn khởi đang tràn ngập. Các
cấp chỉ huy đang ra sức kêu gọi động viên chiến sĩ. Các chiến sĩ đang nuốt vội
miếng cơm, lại hấp tấp lau súng, giờ quyết định tới rồi. Phút chiến thắng vinh
quang tới rồi!
Trong khi ấy những hào sâu của địch cũng không yên ổn được.
Ở đấy là một sự hoang mang hỗn loạn cực độ. Sau này bọn sĩ quan của địch bị bắt
đã nói lại trình trạng của chúng.
Tên quan ba Ca-pây-rông nói:
- Hy vọng biến thành tuyệt vọng,
thương binh ngày một nhiều. Kêu rên, vùi lấp ngay bên cạnh, hỏi ai còn có thể
giữ vững tinh thần mà chiến đấu nữa.
Tướng Đờ-cát nói:
- Pháo binh Việt Nam bắn chúng tôi không ngóc đầu lên được. Bộ binh Việt Nam tấn công khắp các mặt dữ dội như chưa bao giờ thấy. Từng
đại đội, tiểu đoàn của chúng tôi tan rã thành hơi, thành khói, thành bụi. Hầu hết
các đơn vị ở Mường Thanh đã ba ngày, ba đêm ăn không được, ngủ không xong, tình
trạng như thế thì sức đâu mà chống cự nổi nữa. Đến trưa ngày 7-5 thì đạn súng cối
hầu như hết, đạn súng trường gần cạn, trọng pháo thì vô dụng vì bộ đội Việt Nam đã vào quá hàng rào rồi.
Thật ra mấy ngày gần đây, bộ chỉ huy tối cao Pháp ở Điện
Biên Phủ đều trả lời: “Đường thì xa, sức thì kiệt rồi chạy sao nổi!”.
Các cấp chỉ huy của ta đã không bỏ qua tình hình nguy
khốn của địch. Từ 12 giờ trưa trở đi, đài quan sát của ta đã trông rõ lác đác có
những tên lính địch từ những đồn còn lại phía Đông suối nhớn nhác chạy qua cầu
về Mường Thanh, có tên chạy xuống cả suối lội vong mạng. Khác hẳn mọi lần, mỗi
khi ta tấn công là địch tìm mọi cách tranh thủ thời cơ phản kích ngay. Nhưng lần
này hiện tượng im lặng mà có quân lính bỏ chạy tỏ ra chúng đã khốn quẫn lắm rồi
đây. Đồn 507 là đồn án ngữ đầu cầu không có thêm quân tiếp viện.
Hai giờ chiều một kế hoạch tấn công được quyết định.
Khẩu hiệu nêu lên: “Ta còn cách chỉ huy sở của Đờ-cát
hơn hai trăm thước!”, “Bắt Đờ-cát lập công mừng sinh nhật Bác”. Khẩu hiệu được
chuyền tay trong khắp các đơn vị tấn công và rạo rực ở các bộ phận còn ở hậu
tuyến. Các đơn vị dự bị được lệnh sẵn sàng. Máy bay địch thấy thưa thớt hẳn đi! Chúng tuyệt vọng rồi!
Về sau Đờ-cát nói rõ tình trạng
lúc này: Tôi điện cầu cứu Hà Nội, thì tướng Cô-nhi trả lời: “Bộ chỉ huy tối
cao cũng chịu, muốn làm thế nào thì làm”.
Đúng ba giờ chiều cuộc tấn công của ta vào đồn 507 bắt
đầu. Pháo ta chỉ nổ một nhịp ngắn, bộ binh ta đã xung phong ngay. Địch đối phó
lại một cách rời rạc. Trong khi ấy địch từ ở những đồn còn lại bờ suối phía Đông
509, 510, v.v… chạy về phía Mường Thanh ngày càng nhiều, một số trong đồn 507 cũng
bỏ chạy qua cầu. Tuy ta mới vào đồn được độ hai trung đội, nhưng các chiến sĩ
ta nức lòng phấn khởi ào ạt tiến quân như bão. Một lá cờ trắng trong đồn rụt rè,
ngơ ngác, run rẩy giơ lên. Một toán đông lính địch hạ vũ khí giơ tay hàng. Quân
ta đã tốc thẳng đến đồn 509 và chiếm ngay đầu cầu sắt. Quân địch lội qua suối
chạy càng nhiều. Trong Mường Thanh vài khẩu đại liên tắc tắc bắn một cách miễn
cưỡng khốn khổ.
Bỗng chiến sĩ ta báo cáo: “Bên
Mường Thanh có cờ trắng, có một toán ra hàng!”. Đúng như thế rồi! Bộ chỉ huy
ta ra lệnh: “Nắm vững thời cơ đánh thẳng sang Mường Thanh tiến thẳng đến chỉ
huy sở địch”. Các đội dự bị đằng sau được lệnh chuẩn bị, đang bốc lên như lửa.
Khắp các ngả giao thông hào quân ta ngùn ngụt tiến ra tiếp ứng cho bộ đội đi
đầu đánh vào Mường Thanh.
Trung đội trưởng Trần Thà dẫn
trung đội đầu chạy vụt qua cầu chỉ một mũi tiến thẳng xuống phía Nam, còn hai tiểu đội chạy vụt ngay
vào giữa Mường Thanh. Cờ trắng cứ mọc dần lan rộng ra. Tiếng thét gọi hàng của
các chiến sĩ ta vang dội và liên tiếp. Vài khẩu đại liên vẫn dai dẳng chống cự.
Quân địch ra hàng chật cả giao thông hào. Quân ta hạ lệnh cho chúng lên mặt đất
hết.
Thế là trên mặt đất thê lương, vắng lặng và tang tóc của
Mường Thanh bỗng ồn ào nhộn nhịp, lố nhố toàn người là người. Hai khẩu đại liên
hoang mang, lúng túng. Chiến sĩ ta nhân cơ hội vọt lên mặt đất, vừa tiến vừa ra
lệnh cho tù binh đi về hướng sau mình. Phía Nam, những đồng bào ta bị bắt và một số chiến sĩ ta bị bắt
từ đầu chiến dịch vùng ra giằng súng của đám lính da đen còn ngơ ngác, bắt luôn
chúng giơ tay. Và những người mấy phút trước đây là tù của địch bây giờ oai vệ
cắp súng giải tù binh ra vẫy anh em đồng đội, cười ra nước mắt. Thế là đoàn tù
binh đi ra, đi ra dài dằng dặc.
Trung đội thứ hai do đồng chí đại đội trưởng Luật chỉ
huy, tiến sang, bắt ngay tù binh chỉ chỗ Đờ-cát. Chỉ trong chốc lát ta đã vây
chặt hầm chỉ huy. Bọn sĩ quan ngoan cố vẫn dùng lựu đạn chống cự. Nhưng hai loạt
thủ pháo của ta đã làm chúng tê liệt, một tên sĩ quan tham mưu ra xin hàng. Đại
đội trưởng Luật cùng các chiến sĩ Vinh, Nho, v.v… tiến vào nhận sự đầu hàng của
Đờ-cát và toàn bộ chỉ huy. Trong khi ấy đơn vị phía Tây đã chiếm xong trận địa
pháo và vào bắt liên lạc với Thà ở ngã tư sau hầm Đờ-cát. Các đồng chí đã nhanh
nhẹn cắm ngay lá cờ “Quyết chiến Quyết thắng” đỏ rực vinh quang lên nóc hầm. Các
đơn vị dự bị từ bốn phía đã tiến đầy chung quanh Mường Thanh. Cờ đỏ mọc lên rực
rỡ. Nắng chiều vàng rực càng làm cho màu đỏ chiến thắng tươi thắm, càng làm cho
màu trắng thất bại úa tàn, …
Tin “chiếm hoàn toàn Mường Thanh, bắt sống Đờ-cát” được
truyền tức khắc trong toàn quân.
Toàn thể cán bộ và chiến sĩ ta ôm nhau nhảy múa, tung
mũ lên hò hét, có đồng chí vui quá quên cả kỷ luật, bắn từng loạt chỉ thiên chạy
nhảy vang động cả những dãy núi chung quanh.
Đoàn tù binh dài hàng hai ba cây số vẫn lủi thủi đi.
Trong đám tù binh ấy có những người tỏ ra hy vọng: “Đi cố lên, về đến trại là
yên trí!”. Sau đó có tù binh nói: “Mấy tháng nay ở giữa một cánh đồng bát ngát
mà bây giờ mới được thở hít không khí trong sạch, nhìn một khoảng trời rộng rãi,
ở giữa một vùng cây mà hôm nay mới được trông thấy màu lá xanh; ở bên một con
suối rộng mà bây giờ mới được ngắm mặt xuống nước” (lời viên quan ba Ca-pây-rông).
Nhân dân ở các bản chung quanh, ở các lán trong các
khe núi hẻo lánh xô ra đường cái nhìn vào cánh đồng bát ngát thân yêu, loang lổ
máu, ngổn ngang hố bom đạn. Một chiến sĩ khác bảo bạn: “Xong rồi, có lẽ ta lấp
những hố bom ngay cho đồng bào kịp cấy mùa nhỉ. Đang mùa mưa, đồng sẵn nước kịp
thời lắm”. Một chiến sĩ khác mắt như nhìn đi xa xăm nói: “Bác biết tin chắc Bác
trẻ lại nhỉ?”.
Ở Hồng Cúm tàn quân địch còn ngoan cố, chúng chưa chịu
hàng. Xẩm tối chúng ùa ra đánh tháo đường máu chạy về Lào. Nhưng mưu trí của chúng
không lọt qua mắt bộ chỉ huy của ta. Thoát ra chưa được mấy tiếng, toàn bộ chúng
bị chung số phận với số quân ở Mường Thanh. Thế là đúng 20 giờ ngày 7 tháng
5-1954 ta kết thúc trận Điện Biên Phủ thắng lợi oanh liệt trong lịch sử chiến
tranh giải phóng của dân tộc ta.
Thông báo của Bộ Tổng tư lệnh cho biết: Ta đã toàn thắng
trên mặt trận Điện Biên Phủ, thu được một chiến thắng vĩ đại xưa nay chưa từng
có. Ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch, không một tên nào chạy thoát, gồm:
- 17 tiểu đoàn bộ binh của 3 binh đoàn (binh đoàn quân
nhảy dù số 2, binh đoàn cơ động số 9, binh đoàn cơ động số 6);
- 3 tiểu đoàn trọng pháo;
- 1 tiểu đoàn công binh.
(Tổng cộng 21 tiểu đoàn bộ binh) và 10 đại đội nguỵ
binh người Thái bổ sung.
Trong số quân địch bị bắt và chết có:
- Tướng Đờ-cát, chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ;
- 16 quan năm;
- 353 từ quan một đến quan tư;
- 1.396 hạ sĩ quan, …
Ngày 13 tháng 5 trong lễ chiến thắng tưng bừng ngay tại
cạnh Điện Biên Phủ, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đọc nhật lệnh nói rõ:
“Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng vĩ đại xưa
nay chưa từng có trong lịch sử chiến đấu của quân đội ta. Chúng ta đã tiêu diệt
một vạn sáu nghìn quân chủ lực tinh nhuệ của địch trong một tập đoàn cứ điểm kiên
cố nhất của chúng. Chúng ta đã giải phóng toàn bộ căn cứ địa Tây Bắc, củng cố hậu
phương rộng lớn của cuộc kháng chiến, góp phần đảm bảo cho cuộc cải cách ruộng đất
được thành công.
Cùng với các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương
và dân quân du kích khắp toàn quốc, cùng với quân đội giải phóng Pa-thét Lào và
quân đội giải phóng Khơ-me, chúng ta đã đánh bại kế hoạch Na-va, chúng ta đánh
một đòn rất nặng vào âm mưu mở rộng chiến tranh của bọn thực dân hiếu chiến Pháp
và bọn can thiệp Mỹ.
Trải qua chiến dịch Điện Biên Phủ, quân đội ta đã trưởng
thành vượt bực, từ chỗ đánh công kiên quy mô nhỏ tiêu diệt từng tiểu đoàn của địch,
tiến đến chỗ đánh công kiên có tính chất trận địa, quy mô tương đối lớn, tiêu
diệt 21 tiểu đoàn địch. Sự trưởng thành đó là một cơ sở vững chắc để quân ta tiến
tới tiêu diệt nhiều địch hơn nữa, để cuộc kháng chiến của ta giành được những
thắng lợi to lớn hơn nữa.
Quân ta đã đại thắng ở Điện Biên Phủ, đó là nhờ sự lãnh
đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch, Trung ương Đảng và Chính phủ.
Quân ta đã thắng ở Điện Biên Phủ, đó là nhờ ở tinh thần
chiến đấu dũng cảm, gan dạ, bền bỉ ở tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó
khăn của toàn thể cán bộ và chiến sĩ Điện Biên Phủ. Tinh thần đó cần được củng
cố và phát huy hơn nữa.
Quân ta đã đại thắng ở Điện Biên Phủ, đó là nhờ tinh
thần tích cực phục vụ tiền tuyến của anh chị em dân công, của đồng bào Tây Bắc
và đồng bào hậu phương. Thay mặt bộ đội, tôi xin tỏ lòng biết ơn toàn thể anh
chị em dân công, biết ơn toàn thể đồng bào.
Quân ta đã đại thắng ở Điện Biên Phủ, đó là nhờ sự phối
hợp rất đắc lực của các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du
kích trên chiến trường toàn quốc. Ở đồng bằng Bắc Bộ, chiến tranh du kích đã phát
triển mạnh hơn bao giờ hết, bộ đội ta đã nhiều lần cắt đứt đường số 5, đã từng
tập kích thắng lợi vào trường bay Gia Lâm, Cát Bi. Ở Bình Trị Thiên, quân ta đã
hoạt động mạnh. Ở Liên khu 5, quân ta đã giải phóng Công Tum, đánh sâu vào sau
lưng địch, làm cho chúng khó lòng thực hiện được âm mưu đánh chiếm cả vùng tự
do của ta. Ở Nam Bộ, chiến tranh du kích phát triển mạnh. Tôi nhiệt liệt khen
ngợi toàn thể các cán bộ và chiến sĩ của quân ta trên khắp các chiến trường toàn
quốc.
Quân và dân ta đại thắng ở Điện
Biên Phủ, đó là nhờ sự phối hợp chặt chẽ của quân đội giải phóng hai nước anh
em Khơ-me và Pa-thét Lào. Thay mặt quân đội nhân
dân Việt Nam, tôi nhiệt liệt hoan nghênh tinh
thần đoàn kết chiến đấu của quân đội giải phóng Khơ-me, của quân đội giải phóng
Pa-thét Lào…”.
Hồ Chủ tịch điện đến khen thưởng bộ đội:
“Gửi cán bộ và chiến sĩ mặt trận Điện Biên Phủ.
Trước hết Bác gởi lời thân ái thăm các chú thương
binh, toàn thể các chú cũng như toàn thể cán bộ và chiến sĩ toàn quốc đã quyết
tâm tranh được thắng lợi để chúc thọ Bác.
Bác quyết định khao các chú. Khao thế nào tuỳ theo điều
kiện nhưng nhất định khao.
Thế là Bác cháu ta cùng vui, vui để cố gắng mới, để khắc
phục khó khăn mới.
Bác và Chính phủ định thưởng cho tất cả các chú huy hiệu
CHIẾN SĨ ĐIỆN BIÊN PHỦ. Các chú tán thành không?
Bác dặn các chú một lần nữa chớ vì thắng mà kiêu, chớ
chủ quan khinh địch, phải luôn luôn sẵn sàng làm trọn nhiệm vụ Đảng và Chính phủ
giao cho các chú.
Bác hôn các chú.
Bác
HỒ CHÍ MINH”
Trung ương Đảng, Chính phủ và từ khắp các cơ quan, địa
phương tới tấp gửi điện, quà, thư đến chúc mừng, không khí náo nhiệt, vui như
ngày tết lớn. Lòng người từ tiền tuyến đến hậu phương nở nang, rạo rực.
Trên dọc đường, anh chị em dân
công nghe tin, lập tức đặt gánh, ngừng cuốc cầm tay nhau nhảy hát. Một số anh
chị em dân công đang làm đường nghe tin sắp dẫn Đờ-cát đi qua, lập tức vứt
xẻng, cuốc đứng chặn ngay đường đón tất cả các xe bắt dừng lại để xem. Những
anh chị em khác không giữ được nỗi sung sướng, nước mắt cứ trào ra. Ở thị trấn
X (Phú Thọ) mấy đồng bào đi xe đạp vào đến giữa phố vất ngay xe đạp xuống phố
đứng giơ tay kêu lớn:
“Các ông các bà biết chưa? Ta đã diệt xong Điện Biên
Phủ, bắt Đờ-cát rồi!”.
Toàn nhân dân trong phố xôn xao kéo lên đường phố, không
cần biết tin tức gì hơn. Mọi người hò hét, nhảy múa. Tiếng hô: “Hoan hô các bộ
đội và dân công anh dũng ở mặt trận Điện Biên Phủ! Hồ Chủ tịch muôn năm!”
vang động lên chạy khắp nơi, tràn vào các làng xóm xa tít.
(Trích Trần Độ tác phẩm, tập I, NXB Hội Nhà Văn, 2012)
(Trích Trần Độ tác phẩm, tập I, NXB Hội Nhà Văn, 2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét