I
Vào khoảng tháng 6 năm 1944, anh Trường Chinh (lúc
ấy, đồng chí Trường Chinh là tổng bí thư của Đảng ta) bảo tôi đi gặp anh Lê
Quang Đạo để anh Đạo bố trí cho dự một cuộc họp của nhóm Văn hóa Cứu quốc đầu
tiên mới thành lập. Nhiệm vụ của tôi là nghe anh em thảo luận bản Đề cương văn
hóa của Đảng để nắm tình hình về phản ánh, và từ đó sẽ làm cán sự liên lạc,
giúp anh Trường Chinh và Thường vụ Trung ương trực tiếp chỉ đạo.
Tôi gặp anh Đạo ở Bắc Ninh. Hồi ấy, anh là xứ ủy Bắc
kỳ, trực tiếp làm Bí thư thành ủy Hà Nội. Anh Đạo dặn tôi thêm một số việc và
bảo:
- Hồi này ở Hà Nội, bọn mật thám lùng sục ráo riết
lắm, cần cải trang cẩn thận.
Tôi nói cho anh biết sự bỡ ngỡ của tôi: chưa quen, ít kinh nghiệm công tác ở thành phố. Anh Đạo bảo:
- Được, cứ đi với mình!
Chúng tôi đóng bộ giống như những trưởng bạ, hộ lại
hoặc hương sư ở nhà quê ra Hà Nội chơi, hoặc mua bán gì đó. Chúng tôi đều mặc
áo the đen, quần trắng. Tôi đầu đội khăn xếp, tay xách ô vẻ mặt non choẹt,
nhưng may có nước da hơi đen, tôi cũng ra dáng một tay trưởng bạ thực thụ. Anh Đạo đội mũ “cát” cũ
màu trắng xỉn và hơi mốc, đeo kính trắng. Dáng điệu anh giống như một ông hương
sư trầm tĩnh, đứng đắn. Gặp ai anh cũng chào hỏi trịnh trọng.
Thế là với bộ dạng như vậy, hai anh em chúng tôi ra
Thanh Trì, đi đò dọc ngược sông Hồng để lên Vĩnh Tuy. Xuống đò, chúng tôi đứng
ra một góc để khỏi phải bắt chuyện miễn cưỡng. Các bà, các chị kháo chuyện chợ
búa, chồng con, chuyện vợ cả vợ lẽ, rồi đến chuyện trồng đay, nộp thóc cứ râm
ran, ồn ào như cái chợ con. Mấy chàng thanh niên diện “sộp” đại loại cũng như
chúng tôi, thì tỏ vẻ trầm ngâm, thỉnh thoảng liếc nhìn trộm chúng tôi như dò
xét, nghi ngờ, nhưng lại kính trọng, nể vì. Có lẽ những chàng này ở quê ra tỉnh
thăm người nhà, cũng có thể họ là những hộ lại, hương sư chính cống đang muốn
tìm hiểu những người bạn đồng nghiệp, nhưng chúng tôi cũng phải đề phòng: biết
đâu, đấy là bọn mật thám đang bám gót mình.
Càng về chiều, gió càng mạnh hơn. Trên cánh buồm
tiếng gió cứ phần phật. Dưới nước tiếng sóng vỗ bồm bộp vào mạn thuyền sôi nổi
hơn. Chúng tôi ra mũi đứng nhìn con thuyền đang lướt băng băng. Từng đợt sóng
nhấp nhô chui lướt dưới chân chúng tôi, những mảng bọt đục ngầu lần lượt va vào
mạn gỗ, tan ra và trôi đi. Chúng tôi thấy lâng lâng khoan khoái, nghĩ tới các
nhà văn, nhà thơ mà tôi sắp được gặp mặt, sắp được nghe anh em thảo luận bàn
bạc. Lòng dạt dào cảm hứng, anh Đạo đọc cho tôi nghe một bài thơ của Huy Cận và
chúng tôi cùng nhau bình từng đoạn:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Vẳng tiếng làng xa vãn chợ
chiều…”
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng
chiều sa…”
Tôi bỏ khăn xếp ra, lồng vào cánh tay, đứng hóng gió và nghe anh Đạo kể chuyện, có xen kẽ những tiếng lóng. Qua những câu chuyện đó, tôi được biết: từ ngày anh Hoàng Văn Thụ còn hoạt động ở nước ngoài, có một lần qua một con sông, anh cũng đọc một bài thơ, sau này anh đọc lại cho anh Đạo nghe, rồi cũng bình từng đoạn và anh đã có nhiều suy nghĩ về sự nghiệp văn hóa của giai cấp vô sản, của dân tộc ta sau này. Năm 1940, khi anh Thụ đã về nước, hay đi lại qua làng Đình Bảng, Bắc Ninh – quê hương của anh Đạo. Lúc ấy anh Đạo còn làm nhiệm vụ bảo vệ cho anh Thụ. Đến thời kỳ làm bí thư thành ủy Hà Nội, thì anh Đạo càng được anh Thụ giúp đỡ nhiều về kinh nghiệm công tác, kinh nghiệm hoạt động văn hóa và con đường phát triển văn hóa của ta sau này. Gợi lại chuyện cũ, chúng tôi thấy nhớ anh Thụ quá. Tôi có cảm giác như anh đang dặn dò tôi: “Cuộc họp sắp tới tôi phải nghe như thế nào, nói như thế nào, suy nghĩ và làm việc như thế nào, cho đúng với tinh thần Đề cương Văn hóa của Đảng ta”.
Chiều mùa hạ, trời xanh
ngăn ngắt. Xa xa phía chân trời mây trắng đùn lên cuồn cuộn tiếp nối nhau như
những dãy núi tuyết trắng xóa lấp lánh viền bạc. Những rặng tre chạy dọc hai
bên bờ tắm nắng vàng óng như dải lụa màu mỡ gà. Mặt sông Hồng mênh mang hùng
vĩ. Gió lộng, buồm căng, con thuyền lướt sóng rào rào, đưa chúng tôi đi…
Tôi hình dung ra không khí cuộc họp sắp tới, đồng thời chuẩn bị sẵn phong cách đi đứng, nói năng khi đặt chân tới Hà Nội.
Đến nghĩa địa Phúc Thiện, gần làng Hoàng Mai, anh Đạo cẩn thận bảo tôi:
- Cậu tìm chỗ đứng vơ vẩn ở đây chờ tớ độ mười lăm, hai mươi phút. Tớ vào trước xem sao đã, không có lỡ ra có việc gì, mất cả hai thì hỏng. Uy (tức anh Vũ Quốc Uy) đã chuẩn bị “quần áo tây” cho cậu rồi – Anh Đạo mỉm cười nói tiếp – Sau đây cậu sẽ vào thay, bỏ cái lốt “lý đình dù” này, rồi đi.
Anh Đạo đàng hoàng đi vào
trong xóm. Tôi đứng vơ vẩn ở ngoài đường. Vốn không công tác thạo ở thành phố,
tôi thấy lúng túng trong việc phân biệt đâu là mật thám, đâu là người tò mò,
đâu là khách qua đường. Tôi cứ lo lắng nhìn quanh. Trên đường kẻ đi, người lại
tấp nập. Có người chăm chú nhìn tôi cứ như lần đầu tiên trông thấy một người kỳ
lạ. Có người chỉ liếc mắt nhìn qua rồi đi thản nhiên. Loại người này làm cho
tôi lúng túng hơn. Bọn mật thám cũng hay giả vờ như thế. Tôi suy nghĩ miên man,
nên đóng vai gì bây giờ cho thích hợp người và cảnh. Lúc thì tôi làm ra điệu
chuẩn bị để vào thăm mộ trong nghĩa địa, lúc ra dáng muốn sắm một thứ gì, lúc
lại tỏ ra rỗi rãi đang ngẫm nghĩ sự đời. Thỉnh thoảng, có người tò mò lượn đến
gần, nhìn chòng chọc vào mặt tôi. Tôi chuẩn bị đối phó. Người đó lại đi lảng
ra, vội vã, quay đầu nhìn lại. Lúc ấy, thời gian trôi sao mà chậm thế! Trời
tối hẳn, tôi vẫn chưa sắp xếp xong cương vị của mình để ứng phó với những sự
việc bất ngờ. Tôi nóng lòng mong anh Đạo ra, để biết tình hình và cũng là để gỡ
bí cho bản thân.
Còn về phần anh Đạo, thì sự thể thế này. Vào đến nhà
anh Uy, anh thấy vắng vẻ, đã hơi rờn rợn. Chờ một lúc, bà cụ mẹ anh Uy ở đâu
về, vẻ mặt buồn rầu, đau khổ và hoảng hốt. Anh Đạo nói ngay, muốn gặp anh Uy.
Bà cụ níu anh lại, khẩn khoản mời anh ngồi chơi xơi nước. Nghe loáng thoáng vài
câu, biết ngay là anh Uy mới bị bắt tối hôm qua, anh Đạo nóng ruột muốn bà cụ
nói cho nhanh. Vì thường sau mỗi lần bắt người xong, mật thám đều gài người
lại, phục ở xung quanh để tiếp tục bắt nữa. Chính anh Đạo đã bị một lần như vậy
ở Hà Nội, phải dùng mẹo, lẩn ra sau nhà, leo qua tường chạy thoát. Lần này,
thấy vậy anh Đạo lo lắng chuẩn bị xử trí ngay. Nhưng bà cụ muốn kể lể sự tình,
nên cứ khẩn khoản mời anh ở lại. Anh Đạo nóng ruột, tìm mọi cách rời khỏi đó
cho nhanh. Mặt khác, anh cũng rất lo cho tôi: không hiểu đứng ngoài đường một
mình, tôi có để lộ thái độ gì không. Gặp mật thám theo dõi, phục bắt, tôi có
đối phó được không. Và ngay lúc ấy, tôi có còn đi lại an toàn ở trước nghĩa địa
không…
Anh Đạo nảy ra một kế. Anh không uống nước nữa đứng phắt ngay dậy, lấy
mũ đội ngay vào đầu, sừng sộ như là gắt với bà cụ. Anh nói một thôi dài:
- Thế nghĩa là thế nào? Vô lý! Tại sao lại vô lý như thế? Thôi được
cụ yên trí, cháu phải hỏi cho ra ngay mới được. Cháu biết vài chỗ có thể hỏi
được. Cháu sẽ đi hỏi ngay. Thôi chào cụ. Cụ cứ yên trí. Thế này thì bực thật…
Anh vùng vằng đi ra thật nhanh. Anh quay lại chào
cụ, nhưng để liếc nhìn xung quanh xem có đứa nào theo dõi không. Chắc có đứa
theo dõi, nhưng với cách xử lý linh hoạt như vậy, anh đàng hoàng ra khỏi cạm
bẫy của bọn mật thám. Anh đi mạnh bạo ra vẻ một người có uy thế, có thể đi tìm
hỏi cho ra manh mối một vụ bắt oan!
Thế là, giữa lúc tôi đang đi lững thững trước nghĩa
địa Phúc Thiện, bỗng có một người đi ập tới, nói vội vã, giọng bực tức:
- Thôi! ta đi thôi bác ạ, họ lại khất đến tháng
sau.
Cái gì vậy? Tôi ngạc nhiên quay cổ lại, tưởng có
người nhầm. Nhưng chỉ giây lát, khi câu nói chưa dứt, tôi đã hiểu ngay câu
chuyện. Tôi xác định ngay vai trò đi đòi nợ hụt của tôi. Lập tức, tôi đóng ngay
một vai “kịch cương”, đối đáp:
- Phiền phức quá! Cứ công đi công về cũng quá tội.
Về nhà, cụ Bá lại không tin nữa cơ chứ.
Tôi cứ cằn nhằn, lẩm bẩm với cái giọng bực dọc như
thế mãi. Đến lúc đã đi xa làng Hoàng Mai, anh Đạo bấm vào vai tôi, ra hiệu: -
Thôi! Hình như anh đang phải cắn chặt môi để khỏi phì cười. Chúng tôi gọi xe
tay đi cho nhanh về phía chợ Hôm, tìm chỗ tạm nghỉ một đêm. Đến gần chợ Hôm,
chúng tôi xuống đi bộ qua vài phố vắng để xem xét có kẻ theo dõi đằng sau không? Và chúng tôi lại tiếp tục câu chuyện văn chương.
Đêm hôm ấy, chúng tôi ngủ nhờ nhà hiệu sách Bình
Minh – một quần chúng cảm tình của Đảng – nơi anh Đạo thỉnh thoảng đi về qua.
Trong nhà đông người, nhưng chỉ có anh chủ nhà biết chúng tôi, vì vậy chúng tôi
vẫn phải “đóng kịch” là hai ông hương sư, bạn của chủ nhà ra chơi.
Sáng hôm sau, tôi tạm chia tay anh Lê Quang Đạo và
hẹn một dịp khác tổ chức cuộc họp của các nhà văn, nhà thơ tìm hiểu, nghiên cứu
Đề cương văn hóa của Đảng. Lúc ấy, tiến hành được một cuộc họp về văn hóa cũng
đã đầy trắc trở và gian truân.
Trước khi rời Hà Nội, tôi mua mấy viên cồn, ít viên
mực. Về tới An toàn khu, tôi báo cáo lại tình hình với anh Trường Chinh, rồi
tiếp tục các công việc hàng ngày: liên lạc với nhà in, viết bài, bố trí hội
nghị, đưa đón cán bộ, v.v… đồng thời chuẩn bị cho các công việc vừa làm dở dang
kia. Tôi lo lắng băn khoăn, không hiểu lần sau có “thông đồng bén giọt” không?
II
Vài tháng sau, anh Trường Chinh đưa cho tôi “Đề cương văn hóa”, bảo tôi chép ra mấy bản, nghiên cứu cẩn thận. Đồng thời, anh cung cấp thêm tài liệu cho tôi tham khảo, đó là cuốn sách tiếng Pháp dày cộp nói về nghệ thuật và văn học của Mác và Ăng-ghen do Giăng Frê-vin biên soạn và đề tựa. Nhận được tài liệu, tôi rất phấn khởi, giấu kín trong người, nhưng lại lo lắng: không biết tìm đâu ra địa điểm thích hợp để nghiên cứu, kẻo lộ ra thì lắm chuyện rầy rà. Trong cái thời kỳ kẻ địch luôn dò la, lùng sục, bắt bớ ấy, nhà văn nhà thơ ngồi đọc một trang sách báo cách mạng cũng phải hết sức thận trọng ! Tôi tìm đến một gia đình ở làng Hải Bối bên bờ sông Hồng. Gia đình này có anh con trai là thanh niên Cứu quốc, ông bố có cảm tình với cách mạng, còn bà mẹ và những người khác trong nhà đều coi tôi như bạn buôn của anh con trai. Tôi nói với bà mẹ là tôi giận bố bỏ nhà ra đi, xin ở lại đây ăn tết với bạn – con trai bà – rồi sẽ đi kiếm việc làm. Vì vậy, tôi không thích giao du với ai, chỉ muốn được yên tĩnh, ăn và ngủ ở trong buồng riêng. Ông bố và con trai thì biết ý, đoán là tôi có việc gì quan trọng. Những người khác trong nhà cũng chiều ý tôi, nên đã sửa soạn cho tôi một chỗ khá yên tĩnh và bí mật. Tuy nhiên, tôi vẫn đề phòng, vì gia đình này giao thiệp rộng, khách tứ phương, bạn buôn bán qua lại nhiều. Được anh Trường Chinh thu xếp thời gian cho nghiên cứu tài liệu, tôi thấy cũng mừng, nhưng thỉnh thoảng lại bồn chồn, giật mình lo lắng cho anh. Vì ngoài những nhiệm vụ như làm đội trưởng đội công tác, giúp việc anh về công tác tuyên huấn… tôi còn trách nhiệm bảo vệ anh. Bây giờ tôi ngồi riêng ở một nơi, anh đi đâu, đi một mình, lỡ xảy ra việc gì thì tôi ân hận suốt đời. Ngồi một nơi yên tĩnh nghiên cứu tài liệu, nhưng lòng tôi vẫn bứt rứt không yên. Phần nghĩ đến anh, phần nghĩ đến bản “Đề cương văn hóa”.
Theo anh cho biết thì từ lâu anh đã suy nghĩ về bản
“Đề cương” này. Năm 1937 – 1938 khi phong trào bình dân Pháp lên cao. Đảng ta
đã xuất bản một số sách báo công khai. Cần phổ biến sách báo đó tới quần chúng
công nông. Phải xóa nạn “mù chữ” mới giúp cho việc phổ biến chủ nghĩa Mác trong
quần chúng. Vì vậy, lợi dụng lúc công khai, Đảng ta vận động và giúp đỡ một số
trí thức thành lập Hội truyền bá quốc ngữ. Thế nên ý kiến của Lê-nin: “Vận
động văn hóa trước hết là chống nạn mù chữ”, đã trở thành một hoạt động thực
tiễn của Đảng ta.
Năm 39 – 40, Đảng rút vào bí mật, phương thức hoạt
động có khác trước. Năm 1941, tại hội nghị trung ương lần thứ 8 họp ở vùng
Pác-pó, được gặp Bác, anh Trường Chinh đã báo cáo tình hình hoạt động văn hóa.
Bác có nhận xét và chỉ thị nhiều ý kiến. Từ năm 1941 trở đi, anh Trường Chinh
càng chú ý thường xuyên theo dõi và nghiên cứu tình hình các sách báo xuất bản
và văn hóa nói chung. Năm 1943, nước ta ở trong tình thế cách mạng sôi nổi,
thời kỳ Đảng ta lãnh đạo các tổ chức quần chúng tích cực chuẩn bị đấu tranh vũ
trang, tiến lên Tổng khởi nghĩa. Trên thế giới, cuộc chiến tranh chống phát-xít
của Liên Xô đã có nhiều thắng lợi và mở ra nhiều triển vọng mới. Mặt trận Việt
Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối đứng đắn, đang thu hút rộng rãi
mọi tầng lớp nhân dân. Việc phát triển các tổ chức quần chúng ở thành thị, thu
hút các quần chúng tiểu tư sản, trí thức, nhân sĩ yêu nước và các nhà tư sản
dân tộc là một yêu cầu cấp thiết. Ở nông thôn, nhiều nơi Đảng ta cũng đã mở
rộng mặt trận, thu hút cả một số hương lý, kỳ hào và địa chủ. Đội công tác
chúng tôi cũng liên lạc với một số hương lý. Bên cạnh những khẩu hiệu về chính
trị, kinh tế, các khẩu hiệu thể hiện đường lối văn hóa của Đảng ta trong toàn
bộ sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ cũng đã được ra đời từ hai cuộc họp đầu
năm 1943. Tại nhà cụ Bạch ở làng Võng La – tức làng Chài – huyện Đông Anh, tỉnh
Vĩnh Phú, các anh Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt đã bàn bạc rất
nhiều về những vấn đề trên. Sau đó anh Trường Chinh căn cứ vào ý kiến hội nghị
đã khởi thảo Đề cương tại làng Phú Gia – bây giờ thuộc xã Phú Thượng – ngoại
thành Hà Nội.
Tình hình ngày càng khẩn trương. Bọn phản động và kẻ
địch ra sức chống phá phong trào cách mạng. Khởi thảo xong bản “Đề cương văn
hóa”, nhưng không sao họp được, anh Trường Chinh đành gửi tới anh Hoàng Văn Thụ
và anh Hoàng Quốc Việt xem để góp ý kiến. Các anh xem rất kỹ và có sửa chữa một
vài chỗ.
Anh Trường Chinh đã hẹn là sẽ gặp trước khi tôi đi
làm nhiệm vụ. Nhưng tôi chờ mãi vẫn chưa thấy. Mọi lần đi công tác, tôi thường đi trước anh dăm
chục thước để sẵn sàng xử trí mọi bất trắc. Bây giờ anh phải đi một mình.
Trước đây đã có lần suýt nữa xảy ra tai họa. Hôm ấy,
anh đi một mình trên đê sông Hồng. Anh cố ý đi sau một người dân đi đường để
cảnh giác chú ý những điều khả nghi phía trước. Khi gần tới một điếm canh ở ven
đê, anh thấy có xe đạp dựng ở ngoài cửa. Thấy khả nghi, anh đi chầm chậm, chuẩn
bị ứng phó. Người dân đi đường vừa đi tới cửa điếm thì bốn, năm tên lính đoan
từ trong điếm xô ra, túm lấy và khám xét. Lúc ấy, anh Trường Chinh đang mặc áo
the dài, che ô, trong người có tài liệu và súng lục. Anh suy nghĩ: “Nếu cứ đi,
có gì dùng súng đối phó, thì cũng nguy hiểm vì chúng đông người hơn, khó chạy
thoát; lùi lại thì nhất định là lộ, và nếu theo kiểu “cổ điển” giả vờ đi ỉa
thì chúng sẽ sinh nghi, sục ngay tới khám xét. Nhiều người bị bắt vì kiểu ấy
rồi. Trong khoảnh khắc, anh nghĩ ra một mẹo độc đáo. Anh đứng dừng lại, nhìn
chăm chú xuống bãi trồng đay ven sông, làm như vừa phát hiện ra điều gì. Anh bước thong thả vài
bước nữa, đứng lại, cụp ô, chân hơi chạng, một tay chống nạnh, một tay cầm ô
chỉ xuống đám người đang làm, chửi ầm ĩ:
- Các người làm ăn như thế kia à? Thế có chết người
ta không? Làm đi chứ! Làm tử tế để có đay nộp cho các quan Nhật, không thì bỏ mẹ cả bây giờ.
Rồi anh xắn quần, vung ô, vừa chửi vừa đi xăm xăm
xuống cánh đồng. Bọn lính đoan quay lại nhìn theo ngơ ngác. Những người làm
dừng tay cũng nhìn lên ngơ ngác. Anh càng ra vẻ bực tức đi bừa xuống bãi đay,
dừng lại nói láo quáo vài câu, ra vẻ dặn dò rồi đi thẳng ra bờ sông. Thỉnh
thoảng, anh để ý nhìn lại xem bọn lính có đuổi theo không. Anh nhanh chóng tìm
chỗ bãi dâu kín đáo, vắng vẻ, cởi vội áo the ra, xắn cao quần lên, chạy một
mạch dọc bờ sông cho thật xa nơi nguy hiểm, rồi mau chóng lần vào chỗ tôi ở.
Lần này, tôi đã nghiên cứu tài liệu xong và gần tới
ngày đi làm nhiệm vụ mà vẫn chưa thấy anh Trường Chinh đến chỗ tôi, như anh đã
hẹn. Dạo ấy, anh rất bận, một bản in đá của báo “Cờ giải phóng” – tờ báo do anh
Hoàng Văn Thụ sáng lập – phải in đến hai, ba thứ báo khác nữa, như báo “Kêu gọi
lính” và báo của xứ ủy. Anh trực tiếp công tác với xứ ủy, thành ủy Hà Nội, với
các mối binh vận, công vận và với cả những người Pháp dân chủ - thỉnh thoảng
anh về Hà Nội gặp mặt những người Pháp dân chủ ở một ngôi nhà phía hồ Thuyền
Quang. Anh vẫn thường lo lắng tới mối liên lạc với các nhà văn hóa, trí thức.
Thỉnh thoảng anh cũng làm thơ, nhưng anh lại bảo tôi: “Có một người vừa gửi
đến cho báo một bài thơ, mình đọc cậu nghe thử xem sao nhé!…”.
Đang lúc tôi mong chờ nóng ruột nhất thì anh Trường
Chinh đến. Thấy anh bình yên vui vẻ, tôi mừng, nhưng dáng người, vẻ mặt anh rất
mệt mỏi. Theo chương trình đã định, tôi trình bày sự hiểu biết của tôi về bản
Đề cương văn hóa. Anh lắng nghe từng đoạn, anh bảo tôi dừng lại, hỏi cặn kẽ
những vấn đề mấu chốt. Tôi biết anh rất mệt, mắt cứng đờ. Tôi hỏi về sức khỏe
của anh. Anh cho biết: đêm qua, anh dự một cuộc họp căng thẳng từ chập tối cho
đến sáng, họp xong, vội vã về đây. Anh bảo tôi tiếp tục trình bày, anh tiếp tục
bổ sung ý kiến.
Hôm ấy đã sắp đến tết âm lịch. Tôi chuẩn bị lên
đường, để tổ chức cuộc họp với các nhà văn, nhà thơ mà lần trước bị trắc trở.
Tôi và đồng chí Hương – người trong công tác đội – hẹn gặp nhau ở một bến đò
gần đấy. Đồng chí sẽ dẫn tôi đi.
III
Trong thời gian ở “công tác đội” của Trung ương tôi thường nhận được những sách báo từ Hà Nội chuyển về cho anh Trường Chinh. Nhờ đó, tôi cũng biết về những luồng tư tưởng của nhà xuất bản Hàn Thuyên, của nhóm Thanh Nghị, nhóm Tri Tân; về sự tan rã của nhóm Ngày Nay, Tự Lực văn đoàn; sự bế tắc và sa đọa của nhóm Xuân Thu nhã tập. Anh Trường Chinh thường viết bài trên báo bí mật phê phán những tư tưởng phản động của nhóm Hàn Thuyên.
Có một dạo, tôi thường bố trí những chuyến hàng gửi
lên bộ phận trung ương ở chiến khu. Cùng với những súng ống, đạn dược, máy chữ,
giấy, còn có nhiều gói sách báo văn học, nghệ thuật xuất bản ở Hà Nội. Đã có
lần tôi chuẩn bị đi gặp một nhà trí thức có tiếng tăm ở Hà Nội, nhưng rồi về
sau, không hiểu sao lại thôi.
Lần này, tôi đi với nhiệm vụ rõ ràng là gặp các anh
em làm công tác văn hóa để truyền đạt bản Đề cương văn hóa của Đảng, và cùng
anh em bàn việc phát triển tổ chức văn hóa cứu quốc, mở rộng ảnh hưởng của Đảng
trong hàng ngũ các nhà văn hóa. Tôi sẽ gặp các anh Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài,
Nguyên Hồng, Nam Cao, Như Phong, Nguyễn Đình Thi. Từ ngày còn là một học sinh,
tôi đã biết tiếng các nhà văn này. Năm 38… 39, khi còn đi học và bắt đầu giác
ngộ cách mạng, tôi đã gặp anh Như Phong ở Hà Nội. Tôi tập viết những mẩu tả
cảnh, dịch truyện ngắn, v.v… đem tới nhờ anh sửa chữa. Tôi được biết anh Nguyễn
Đình Thi đã viết sách nghiên cứu về triết học… Tôi suy nghĩ lo lắng tới tác
phong, thái độ của mình nên như thế nào cho phải khi gặp các anh ấy. Thật là
một chuyện khó nghĩ. Trước là học trò, bây giờ lại đi giải thích cho thày! Tôi
nghĩ tới các quan điểm “nghệ thuật vị dân sinh”, “nghệ thuật vị nghệ thuật”
trong các cuộc tranh luận trước đây, tới các quan điểm văn hóa của Đảng mà tôi
thường được các anh ở trung ương giáo dục, giúp đỡ.
Chiều mồng một tết, đồng chí Hương dẫn tôi ra Hà
Nội. Anh người nhỏ nhắn, da hơi đen, môi dày, mắt hơi cận thị và hấp háy một
cách tinh quái. Hương là một thanh niên tháo vát, nhanh nhẹn, sôi nổi, đã giúp
nhiều cho công tác của trung ương. Đi với anh tôi vững dạ, tin tưởng. Anh dũng
cảm, gan dạ, rất tài đánh lạc hướng mật thám, tuy đôi khi cũng hơi mạo hiểm.
Quả vậy, Hương đã dẫn tôi đi đàng hoàng, đôi lúc tôi
hơi ngại. Anh bảo: “Cứ yên trí”, rồi hấp háy cặp mắt, nói tiếp: “Kia, kìa!
chó kia kìa”. Tôi biết có mật thám theo dõi. Vài phút sau, chúng tôi đã rẽ đi
một đường khác, mật thám bị chưng hửng.
Hương dẫn tôi đến một ngôi nhà ở phố Hàng Than để
bắt liên lạc. Ngày tết, đường phố Hà Nội đầy xác pháo, từng tốp người con cháu
ríu rít, mặc quần áo mới, dắt nhau đi. Người lớn vẻ mặt lặng lẽ, âm thầm như lo
âu. Trẻ con cười nói hồn nhiên, nhưng đôi lúc hơi ngơ ngác… Cái tết của những
người dân một thành phố đang bị phát-xít Nhật chiếm đóng. Trong lòng thành phố
đang âm ỉ một ngọn lửa chỉ chờ ngày bùng lên và lan rộng. Ngọn lửa cách mạng.
Chiều hôm ấy, tôi tới nhà anh Tô Hoài ở làng Nghè –
Nghĩa Đô, ngoại thành Hà Nội.
Chúng tôi họp trong căn buồng đầu của một ngôi nhà
gỗ, lợp ngói. Trong buồng tối om, có một cái gường gỗ, một tấm ván kê lên làm
bàn. Đó là bàn làm việc của anh Tô Hoài. Hồi ấy tôi cũng ước ao được một cái
bàn, một nơi tĩnh mịch như thế để làm việc. Ngồi họp, tôi luôn nhắc tới anh
Nguyễn Đình Thi và anh Như Phong. Tôi không rõ vì khó khăn gì mà các anh ấy
không tới được, nên cũng hơi tiếc. Lâu lắm, bây giờ mới có dịp gặp lại các anh
quen biết trước kia. Anh Nam Cao về quê ăn tết, không nhận được tin, nên cũng
vắng mặt. Thành thử, hôm ấy, không kể tôi và anh Hương, chỉ có mấy anh Nguyễn
Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Tô Hoài và một anh nữa – bây giờ tôi không nhớ rõ nữa.
Cuộc họp lặng lẽ, bí mật, song vẫn sôi nổi. Chúng tôi ăn bánh chưng chấm nước
mắm. Tuy vậy, anh Tô Hoài phải vất vả lắm mới “cung cấp” nổi. Với cái trán khá
cao, nước da trắng trẻo, hay mỉm cười một cách dễ thương, anh Tô Hoài đề nghị
phân tích sâu từng chi tiết. Anh Nguyễn Huy Tưởng người khá to lớn, mặt vuông
có vẻ trầm ngâm, phát biểu từng ý kiến chắc nịch. Anh Nguyên Hồng, người bé
nhỏ, rắn rỏi, nói rất sôi nổi. Chúng tôi bàn bạc với nhau rất nghiêm túc về
đường lối văn hóa của Đảng, về tổ chức hội văn hóa cứu quốc, về những chuyện
thời cuộc. Chúng tôi nhớ rất sâu sắc ba nguyên tắc trong nội dung Đề cương văn
hóa: Dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa. Vì lúc ấy, ba nguyên tắc đó
chẳng khác nào ba vị thuốc rất mạnh nhằm đúng những căn bệnh: lai căng, thần
bí, bế tắc, mơ hồ, mê tín, viển vông… của thứ văn hóa nô lệ. Nó như ba mũi dao
chích thẳng vào âm mưu nô dịch, lừa bịp, ngu dân của bọn đế quốc và phát xít,
đâm thẳng vào bọn tay sai đang đội lốt mác-xít để lừa bịp quần chúng.
Sáng mồng ba tết, cuộc họp bế mạc. Trong lòng mỗi
người chúng tôi đều tràn đầy niềm vui và tin tưởng: vừa giũ bỏ được những bối
rối, ưu tư trước thời cuộc, vừa được vũ trang những quan điểm mới mẻ và đúng
đắn về công tác và sự nghiệp. Tấm lòng mỗi người vốn đã hướng về cách mạng, giờ
đây như được ánh sáng của Đảng rọi chiếu làm cho sáng hẳn lên. Con đường đi của
mỗi người được xác định rõ ràng và dứt khoát.
Chúng tôi xiết chặt tay nhau, phấn khởi ra về để lao
vào công tác, chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Hình ảnh cuộc họp đầu tiên ấy thật đơn
sơ, song cũng thật
sâu đậm. Nó mãi mãi khắc sâu trong tâm khảm mỗi người chúng tôi.
Tháng 1-1965.
(Trích Trần Độ tác phẩm, tập II, Nxb Hội Nhà Văn, 2012)
(Trích Trần Độ tác phẩm, tập II, Nxb Hội Nhà Văn, 2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét