Thứ Hai, 27 tháng 10, 2014

Trần Độ, nhà văn, vị tướng



Nhà văn Trình Quang Phú

Ở tuổi thanh xuân, chúng tôi thường đọc tùy bút của Trần Độ và thấy như ông tiếp lửa vào mỗi chúng tôi, đọc tùy bút của ông mà lòng cứ muốn ra chiến trường. Đó là “Anh bộ đội và tuổi hai mươi”, đó là “Anh hùng và chân lý” (ông ký dưới bút danh Cửu Long). Những bài ông viết từ miền Nam cứ hừng hực, hừng hực lửa chiến đấu. Càng đọc càng mê ông và quý trọng ông.



Năm 1968, đi chiến trường Khe Sanh, một hôm bên chiến hào giữa đạn bom như vãi trấu, một chiếc máy bay bà già (loại cánh quạt L19) lượn rải truyền đơn, mấy tờ rơi vào chỗ chiến hào của chúng tôi. Tôi vươn tay lượm mấy tờ, đồng đội la lên: “Xé đi, đồ tâm lý chiến đọc làm gì?”. Tôi lướt vội xem chúng nói gì, thì giật mình, một tin làm rúng động tim tôi: “tướng Trần Độ đã chết”. Chúng chụp ảnh ông trong bộ bà ba đen nằm chết co quắp không rõ mặt và nói rõ: ông chỉ huy trận tổng tiến công tết Mậu Thân vào Sài Gòn và đã bị chúng tiêu diệt.

Trong chiến đấu, hy sinh là lẽ thường nhưng tin này bồi hồi trong chúng tôi, những người lính trẻ tiếc thương một vị tướng tài đã có những bài văn làm rung động và đi vào lòng người. Tuần sau về đến căn cứ hỏi ra mới biết là tin tâm lý chiến của địch. Ông vẫn sống và đang làm Phó Chính ủy Quân giải phóng miền Nam.


Chân dung ông Trần Độ. Ảnh: Trình Quang Phú
 Khi rời chiến trường trở về đến Hà Nội lúc đó tôi công tác ở Ban Miền Nam CP40, tôi được biết tướng Trần Độ đã ra Hà Nội, ở khu đặc biệt Hồ Tây cùng với đồng chí Nguyễn Văn Linh – Bí thư Trung ương Cục và mới được gặp Bác Hồ. Hôm đó, đồng chí Lê Toàn Thư – Thủ trưởng Ban Miền Nam của chúng tôi lên thăm ông, tôi được tháp tùng. Gặp ông tôi thấy ở ông chất một tướng văn hơn là một tướng võ. Ông nhẹ nhàng, chân chất, giản dị. Tay luôn cầm điếu thuốc và hút liên tục. Tôi kể với ông chuyện chúng tôi được tin ông chết, ông cười:

- “Chúng nó không giết được chúng ta bằng súng đạn thì phải giết bằng truyền đơn thôi”. Im lặng một giây, hút một hơi thuốc, ông nói: “Với chúng ta, trong công tác tuyên truyền phải luôn tôn trọng sự thật, không có sự thật sẽ làm mất niềm tin của dân và sẽ phản tuyên truyền”.

 
Ông Trần Độ trong gian phòng ở và làm việc những năm cuối đời. Ảnh: Trình Quang Phú

Bẵng đi một thời gian, tôi có dịp gặp lại ông, khi đó đất nước đã thống nhất, ông là ủy viên Hội đồng Nhà nước, Phó Chủ tịch Quốc hội và trước đó là Trưởng Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương. Khi đó tôi giúp việc cho Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, tôi thường gặp ông trong những lần ông đến thăm và làm việc với Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Có lần sau khi làm việc xong, ông rủ tôi đi chụp ảnh. Ông cũng là người say mê nhiếp ảnh, máy ảnh luôn bên người. Chúng tôi thân nhau có lẽ có lý do mê nhiếp ảnh – kể cả thư ký của ông, anh Nghiêm Hà cũng là nhà nhiếp ảnh. Và một điều thú vị nữa, ông là nhà văn, một cây tùy bút đã có những bài tùy bút của ông chinh phục tôi từ tuổi thanh niên. Ông là hội viên vào lớp sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam nhưng không bao giờ ông tự coi mình là nhà văn. Ông nói rạch ròi với tôi: “Gọi mình là nhà văn nghe nó ngượng lắm, nhà văn thì phải dấn thân suốt đời. Mình chỉ thích viết theo tùy hứng, nói đúng ra là mê văn học, thích đọc nhiều”.

Sau này khi về hưu và khoảng chục năm cuối đời sức khỏe ông yếu, nhất là chân phải mổ, nhưng ông vẫn thích đi và viết. Tôi có điều kiện gần gũi ông hơn. Ông hay trao đổi và nhờ tôi, Nghiêm Hà, Đỗ Trọng Hội hỗ trợ để ông được đi lại giao du, thăm bạn bè chiến hữu. Có lần ông gọi tôi ra đưa ông vào Thành phố Hồ Chí Minh. Có lần ông đề nghị tôi giúp ông đi tìm người bạn cũ là lính ở chiến trường mất liên lạc, phải qua ba bốn người trung gian và cả ngày mới tìm ra. Họ gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Chúng tôi cũng vui lây với sự đoàn tụ đúng nghĩa của hai chữ đồng đội.

Chúng tôi đưa ông đi Long Hải, Vũng Tàu, đi miền Tây, đi Đà Lạt… Trong những chuyến đi như vậy, ông rất thân tình kể chuyện đời làm tướng cho tôi nghe mà ông vẫn gọi là chuyện đời lính của ông. Trong các hồi ức đó, tôi thích nhất là chuyện ông cùng tướng Lê Trọng Tấn là người chỉ huy đầu tiên gặp tướng thua trận Đờ Cát Tơ ri (De Castries) ngay sau khi ta chiếm hầm chỉ huy ở Điện Biên Phủ. Ông kể: “Anh em báo đã bắt được tướng Đờ - Cát. Cấp trên bảo phải xác minh chính xác đúng Đờ - Cát rồi mới báo cáo để công bố. Khi mở màn chiến dịch chúng tớ đã được Bộ Tổng đưa cho một tấm ảnh của Đờ - Cát. Hôm gặp hắn, mình thấy hắn vẫn đội cái mũ ca-lô đỏ mà có lần y khích tướng: Đội cái mũ đỏ để Việt Minh nhận rõ mục tiêu. Mình nhìn cái mũ đỏ của nó mà thấy ghét, mình hỏi nó bằng tiếng Pháp “Ông có thể lấy cái mũ đỏ của ông ra được không?” Mình muốn y bỏ mũ để dễ xác định với ảnh chân dung của hắn. Một ý thêm nữa là mình muốn bảo nó bỏ cái ý ngông nghênh của kẻ xâm lược đi. Y gật đầu, bỏ vội ca-lô đỏ ra. Mình và anh Tấn so y với tấm hình thì dù có gầy đi nhưng là đúng. Kiểm tra một số yếu tố khác chúng tớ biết chắc chắn đã bắt Đờ - Cát và toàn bộ Bộ Chỉ huy Pháp ở Điện Biên, liền báo cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, để tuyên bố kết thúc trọn vẹn trận chiến đấu lịch sử Điện Biên Phủ”.

Một chuyện thứ hai của ông cũng rất ấn tượng với tôi, đó là chuyện ông đi vào Nam. Ông không vượt Trường Sơn như chúng tôi. Thật ly kỳ, theo ông kể: Ông cùng tướng Hoàng Cầm bay sang Trung Quốc rồi đi bằng đường thủy như kiểu đường Hồ Chí Minh trên biển Đông. Như vậy là ông lênh đênh trên biển và qua 3 quốc gia, ông đã đi dọc chiều dài trên 3000 cây số hình chữ S của tổ quốc Việt Nam và đi trên biển Đông. Để rồi sau đó từ Campuchia vào Tây Ninh trở thành Phó Chính ủy Quân giải phóng miền Nam.

Chuyến đi gian khổ, ly kỳ, hai người phải đóng vai thợ máy và công nhân đốt lò trên một tàu buôn Trung Quốc. Tàu phải vượt qua sự bủa vây của Hạm đội 7 và sự tuần tra của hải quân ngụy Sài Gòn. Ông kể: “Vào tới đất miền Nam ta, cởi bỏ bộ quần áo nhà buôn Trung Quốc, bỏ cả giày dép, mặc bộ bà ba đen, quấn cái khăn rằn và cưỡi chiếc xe đạp không thắng, không chắn bùn, đạp tông tênh giữa rừng khộp nó ngồ ngộ và lâng lâng thế nào ấy. Ông nói với tôi, ông sẽ viết hồi ký… Sau ngày ông mất tôi đọc trong Hồi ký của ông có bài “Trên đường đi B” rất thú vị, có những đoạn tôi thích…

Bìa tác phẩm
Trần Độ có biệt tài viết tùy bút. Văn của ông giản dị, nói đúng ra là dung dị, gần gũi với người đọc, cũng rất hình ảnh, rất chi tiết, ông luôn hướng được người đọc về một mục đích tích cực: là yêu nước và cứu nước.

Ông thường nói với tôi: mình chỉ thích có một chữ “đa” là đa ý kiến. Vì đa ý kiến nên mình thích viết. Tôi cùng Nghiêm Hà nhiều khi tranh luận những ý kiến của ông. Có lần ông nghe chúng tôi nhưng nhiều lần ông vẫn giữ ý mình, có chăng là điều chỉnh chút đỉnh. Ông là vị tướng, được phong Trung tướng từ 1974 nhưng ông vẫn đơn giản sống thời lính. Sau giải phóng, căn phòng ở và làm việc của ông ở 97 Trần Hưng Đạo, ông để một nửa là những kệ sách kê sát nhau như một thư viện thu nhỏ và cột bên cạnh đó chiếc võng Trường Sơn. Ông nằm võng và đọc sách. Thấy tôi nhìn thích thú góc sách ấy, ông cười: “Góc Trường Sơn của tớ đấy”. Ông vẫn bình dị. Nhiều lần ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ của Nguyễn Trọng Oánh:

Anh ngơ ngác giữa cuộc đời thế mãi,

Như trăng kia ngơ ngác giữa bầu trời.

Và ông nói thêm: “Trong cơ chế thị trường này đúng là tớ ngơ ngác”.

Đúng là ông rất ngơ ngác trước những cuộc sống bon chen chạy vạy và bị đồng tiền chen lấn thống trị. Biết vậy tôi và Nghiêm Hà nhất quyết hết lòng hỗ trợ ông, nhất là lúc ông ngã bệnh phải mổ xẻ. Ông thường gọi tôi, có lúc bận chưa kịp đến bị ông hờn dỗi, trách móc… tôi vẫn bảo với Nghiêm Hà: “Cái gì làm được cho anh Độ, chúng ta cố làm”. Một lần ông hỏi tôi: “Ngôi nhà 97 Trần Hưng Đạo là nhà công vụ, nghe nói Chính Phủ có chính sách bán hóa giá, vậy mình phải làm sao để hóa giá?”. Ông bảo tôi và Nghiêm Hà tìm hiểu. Về sau ông giao cho tôi mang thư của ông đưa tận tay đồng chí Phan Văn Khải lúc đó là Phó Thủ tướng Thường trực và ông được giải quyết theo nguyện vọng. Thế là ông đã một lần vượt qua cái ngơ ngác đời thường.

Sau ngày ông mất, căn nhà được cất lại trang nghiêm, Nghiêm Hà và con trai thứ hai của ông, anh Trần Vinh Quang đã cùng một vài bạn hữu sưu tầm, tập hợp các tác phẩm của ông để xuất bản thành bộ “Trần Độ tác phẩm” dù là chưa tập hợp hết, nhưng bộ sách đã dày đến 2400 trang với 3 tập, rất đồ sộ. Trần Vinh Quang đã mang bộ sách có đóng dấu đỏ “Gia đình Nhà văn kính tặng” đến tặng tôi. Lần giở từng trang mới thấy sức viết của Trần Độ thật là to lớn. Có trên 1000 trang là ký, tùy bút và truyện. Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam viết lời giới thiệu bộ tác phẩm Trần Độ này. Bây giờ thì dù ông có tránh né thế nào thì hiển nhiên ông vẫn là lớp nhà văn lớn của đất nước, lớn về độ dày với thời gian, lớn về số nhiều của tác phẩm và lớn hơn là tư duy, suy nghĩ.

Đúng là trong văn của ông có võ, võ có văn của vị tướng.

(Trích Còn với non sông một chữ tình, Nxb Hội Nhà văn, 2014)         
  

4 nhận xét:

  1. Hay quá, rất đời thường và rất Trần Độ!

    Trả lờiXóa
  2. Đúng như tên gọi của cuốn sách "Còn với non sông một chữ tình" khi đọc tác phẩm này .Rất chân thật khi viết về một con người

    Trả lờiXóa
  3. .Hoàng Anh K6 :..phải luôn tôn trọng sự thật, không có sự thật sẽ làm mất niềm tin của dân và sẽ phản tuyên truyền”. Đúng vậy !

    Trả lờiXóa
  4. có một lần tôi sang ngồi ở phòng chú ĐỘ nói chuyện ,nhà tôi chung bức tường với nhà 97 chú ở ,tôi hỏi :" Chú ơi ,trước Cha cháu với chú thế nào ?sao lại được phong tướng?" , Chú ĐỘ trả lời :"Cha cháu là tướng trận , thế hệ đầu tiên là đàn anh của Tao ! nhưng ông ấy nghiêm lắm ,phê bình kỷ luật cả Tao ! " ." Sao lại phê bình Chú?" ,"Tại tính tao hơi tự do ,ông ấy muốn giữ uy tín của cán bộ ,không để người ngoài động vào." .Đơn giản vậy thôi , với con cháu Chú ĐỘ không che dấu chuyện quá khứ ,mà kể lại rất thoải mái.Một Nhân Cách lớn !
    Thanh Trần

    Trả lờiXóa