Nói đến văn học Xô-viết, trước hết tôi hay nghĩ đến những
kỷ niệm thú vị trong cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi. Những kỷ niệm rất sâu
sắc, rất thú vị, nhưng nó không phải chỉ có ý nghĩa kỷ niệm, nó có ý nghĩa những
kinh nghiệm có tính nguyên tắc rất lớn. Có thể nói, Việt Nam tiếp xúc với văn học Xô-viết gần sát ngay sau khi tiếp
xúc với tư tưởng Mác – Lê-nin và vì vậy, gần như đồng thời.
Ngay từ những năm 1939 – 1940, khi mới tham gia phong
trào thanh niên do Đảng Cộng sản lãnh đạo, tôi đã được tiếp xúc với Goóc-ki (tiểu
thuyết “Người mẹ”), nghe nói đến Mai-a-cốp-xki, tiếp xúc với Kê-ra-phi-mô-vích
(“Suối thép”) ở trong nhà tù Sơn La qua bản tiếng Pháp (Le torrent de fer). Những
hình tượng nhân vật, những tư tưởng trong các tiểu thuyết đó bồi đắp nền móng
cho tư tưởng cộng sản trong tôi thêm bền vững và phong phú.
Trong những năm chiến tranh chống Pháp từ 1946 – 1954,
tôi là người say sưa tìm kiếm các tiểu thuyết Xô-viết để đọc. Lúc ấy chúng tôi
gặp được những tiểu thuyết của Ê-ren-bua, của Pha-đê-ép, của Sô-lô-khốp,
Ka-da-ki-ê-vích, Bô-rix Pô-lê-vôi, Xi-mô-nốp và bước đầu được tiếp xúc với các
nhà văn cổ điển Nga như Lép Tôn-xtôi, … Lúc ấy, ta chưa có được những công trình
và quy mô dịch thuật lớn như bây giờ. Chúng tôi chủ yếu dựa vào các sách tiếng
Pháp. Và vì phải mượn chuyền tay nhau, nên phải tranh thủ những đêm khuya ở lán
trại, lúc hành quân và trong chiến hào để đọc.
Tôi là người hăng hái đọc và hăng hái kể lại những
chuyện đã đọc cho cán bộ và chiến sĩ trong Sư đoàn của tôi nghe trong các cuộc
hội nghị lớn. Vì nóng lòng muốn cho chiến sĩ
được biết bộ mặt tinh thần của những người anh em thân thiết của mình (chiến sĩ
Hồng quân Xô-viết) trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Tôi còn tranh thủ,
không quản trình độ ngoại ngữ có hạn, dịch từng đoạn hay trích trong tiểu
thuyết hoặc lược thuật các truyện ngắn hay, rồi in bằng thạch bản để phát hành
trong Sư đoàn. Ở mặt trận Điện Biên Phủ, tôi đã đọc “Chiến bại” của Pha-đê-ép
và lược thuật nhiều truyện trong tập “Những người Xô-viết chúng tôi” của
Pô-lê-vôi. Năm 1955, một bản dịch của tôi đã được Nhà xuất bản Quân đội Nhân
dân in lại, mà gần đây tôi được các đồng chí ở Nhà xuất bản Sự thật giữ được
gửi tặng tôi. Đó là tập “Thiếu tá Lu-băng-xốp” trích trong tiểu thuyết “Mùa
xuân trên sông Ô-đe” của Ka-da-ki-ê-vích. Cuốn sách rất mỏng, nhưng chúng tôi rất
thú vị. Nhớ lại những kỷ niệm này, tôi rất xúc động.
Ý thức về văn học là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng,
được hình thành rõ rệt và vững chắc trong chúng tôi. Chúng tôi đã rất sớm biết đến
bài báo nổi tiếng của Lê-nin Tổ chức Đảng và văn học có tính Đảng. Chúng tôi rất
thích thú khi viện câu nói nổi tiếng của Sô-lô-khốp : “Nhà văn viết theo mệnh lệnh
trái tim, nhưng trái tim của nhà văn đã thuộc về Đảng”.
Trong kháng chiến chống Mỹ và nhất là từ sau 1975, chúng
tôi lại được tiếp xúc rộng rãi hơn với nhiều tác phẩm của các nhà văn Xô-viết. Đồng
thời chúng tôi còn được đọc những công trình nghiên cứu lớn của Khrép-chen-cô,
Xu-skốp và những công trình của các nhà văn Việt Nam nghiên cứu về văn học Xô-viết. Chúng tôi được biết những
tác giả mới rất lớn của Liên Xô : Đum-bát-giê, Ai-ma-tốp, Bư-cốp, Bôn-đa-rép,
v.v…
Chúng tôi hiểu thêm được thế nào là sự phong phú, đa dạng
và sức vươn lên mạnh mẽ tuyệt vời của văn học Xô-viết.
Nhìn lại lịch sử Liên Xô và lịch sử văn học Xô-viết,
chúng tôi rất sung sướng thấy có một sự thống nhất giữa văn học Xô-viết và văn
học Việt Nam về phương hướng tư tưởng, thống nhất về yêu cầu tính Đảng và thống
nhất yêu cầu phong phú, đa dạng của văn học. Những công trình lý luận văn học của
Liên Xô giúp chúng tôi nhìn ra rõ hơn những vấn đề của mình.
Ảnh : Thứ trưởng Bộ Văn hóa Trần Độ thăm quan và làm việc tại Ca-dắc-tan, 1978 |
Chúng tôi đang có đồng thời nhiều vấn đề mà lịch sử Liên
Xô đã trải qua: những vấn đề của bước đi ban đầu, thời kỳ quá độ, thái độ đối
với văn học quá khứ, những vấn đề của chiến tranh và sau chiến tranh, những vấn
đề của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa trong thời đại khoa học kỹ thuật phát
triển mạnh mẽ. Bởi vì lịch sử Liên Xô là một sự liên tục chặt chẽ, không thể
chia cắt để tìm một giai đoạn nào phù hợp với Việt Nam được. Chúng tôi cho là chúng tôi rất may mắn có cả một
kho tàng kinh nghiệm đồ sộ của Liên Xô, chúng tôi chỉ có thể đặt ngay những vấn
đề mới nhất của văn học xã hội chủ nghĩa qua kinh nghiệm của Liên Xô, như vấn đề
tính đa dạng phong phú của văn học, vấn đề tính Đảng và bản chất thẩm mỹ của nó,
vấn đề tính nhân đạo trong văn học, thái độ đối với kho tàng văn học của quá khứ
và của cả loài người, vấn đề sự phát triển mới của phương pháp hiện thực xã hội
chủ nghĩa, vấn đề hình tượng tiêu cực và hình tượng tích cực, vấn đề phản ánh
chiến tranh và phản ánh lao động sản xuất. Rõ ràng những vấn đề trên không phải
chỉ là những vấn đề văn học của Liên Xô đang xây dựng xã hội chủ nghĩa phát triển
mà nó cũng đang là những vấn đề nóng hổi của văn học Việt Nam. Việt Nam không cần
phải chờ 30 hay 50 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội mới đặt được và giải quyết những
vấn đề mà Liên Xô đang đặt ra.
Vì vậy, những kinh nghiệm của Liên Xô có giá trị thực sự lớn lao. Trong học tập kinh nghiệm, Việt Nam sẽ không hề máy móc, giáo điều, nhưng dù sao thì văn học Việt Nam cũng có cái may mắn vô giá là có Liên Xô và các nước anh em đã đi trước được nhiều bước có ý nghĩa rất lớn.
(Trích Trần Độ tác phẩm, tập II, Nxb Hội Nhà văn, 2012)
Vì vậy, những kinh nghiệm của Liên Xô có giá trị thực sự lớn lao. Trong học tập kinh nghiệm, Việt Nam sẽ không hề máy móc, giáo điều, nhưng dù sao thì văn học Việt Nam cũng có cái may mắn vô giá là có Liên Xô và các nước anh em đã đi trước được nhiều bước có ý nghĩa rất lớn.
(Trích Trần Độ tác phẩm, tập II, Nxb Hội Nhà văn, 2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét