Đại
hội lần thứ VI của Đảng ta có những tư tưởng lớn. Những tư tưởng đó nếu được
hiểu đúng và đi vào cuộc sống sinh động sẽ tạo nên sức sống mới cho tình hình
phát triển xã hội, làm cho xã hội ta vượt qua được những khó khăn phức tạp, tạo
nên những thành tựu trong mọi lĩnh vực, tạo nên những biến chuyển lành mạnh đưa
xã hội ta tiến lên.
Một
tư tưởng lớn bao trùm là tư tưởng đổi mới. Yêu cầu đổi mới là một yêu cầu cấp
bách. Đó là yêu cầu ta nghiêm khắc tự phê bình phân tích được những thiếu sót,
sai lầm trong nhận thức, quan niệm về mọi mặt, xác định được những quan niệm đúng
đắn hợp quy luật có tính khoa học và cách mạng để tạo ra sự chuyển biến trong
mọi lĩnh vực. Yêu cầu đổi mới là yêu cầu toàn diện : về tư duy, về phong cách
và về tổ chức cán bộ. Yêu cầu đổi mới trước hết tập trung vào 4 bài học lớn mà Đại
hội đã nhất trí chỉ ra. Và trước hết là yêu cầu đổi mới tư duy nghĩa là đổi mới
cách suy nghĩ, đổi mới nhiều nội dung suy nghĩ, để suy nghĩ được cho thật đúng
và để hành dộng cho đúng.
Lĩnh
vực văn hoá, văn nghệ là một lĩnh vực yêu cầu nhiều nhận thức và quan niệm vừa
phong phú vừa tinh tế. Trong Báo cáo chính trị của Đại hội, không có một phần
riêng, chương riêng về văn hoá, văn nghệ. Nhưng trong nhiều phần, vấn đề văn
hoá, văn nghệ đã được đề cập đến với những quan điểm, quan niệm mới mẻ so với
những cách đề cập từ trước. Vấn đề văn hoá, văn nghệ được đặt ra trong khuôn
khổ các chính sách xã hội mà các chính sách xã hội đó được Đại hội rất coi
trọng, lại được đặt ra trong công tác tư tưởng, trong nhiệm vụ xây dựng con người
mới với những quan niệm về vai trò, chức năng một cách toàn diện, phong phú và
chính xác.
Những
quan điểm và quan niệm về văn hoá, văn nghệ nêu lên trong Đại hội VI là những
quan điểm, quan niệm vừa cơ bản vừa tiên tiến, vừa phù hợp với những nguyên lý
kinh điển, vừa gần gũi với những phát triển lý luận mới của thế giới xã hội chủ
nghĩa.
Để
có thể hiểu thêm các quan điểm và quan niệm đó, cần phải bàn nhiều mặt, nhiều
vấn đề và nhiều lần nữa. Ở đây xin bàn đến một số vấn đề đầu tiên và quan trọng
nhất để mở rộng và cụ thể hoá những điều đã được nói đến trong Đại hội :
-
Về chính sách xã hội và vai trò của con người ;
-
Về phương hướng xây dựng văn hoá ;
-
Về nhiệm vụ công tác văn hoá và hiệu quả xã hội của nó ;
-
Về sự đổi mới và phát triển văn hoá, nghệ thuật ;
-
Về Đảng lãnh đạo văn hoá, văn nghệ và nâng cao trình độ lãnh đạo.
Chương
I
Về chính sách xã hội và vai trò của
con người
Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra một luận điểm hết sức quan trọng là đặt
ngang các chính sách xã hội với các chính sách kinh tế, chứ không coi các chính
sách xã hội chỉ là những chính sách phúc lợi ban ơn đối với nhân dân.
Báo
cáo chính trị tại Đại hội VI viết :
“Chính
sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người : điều kiện lao động và
sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân
tộc, … Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự
thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi
nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội” (Tạp chí Cộng sản tháng 1-1987. Số đặc biệt về Đại hội VI của
Đảng, tr.56).
Và
“Trong việc phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích
cao nhất của mọi hoạt động, cần có kế hoạch chủ động xây dựng cơ cấu giai cấp
của xã hội mới, cụ thể hoá và thực hiện đúng chính sách dân tộc và chính sách
tự do tín ngưỡng.
Cùng
với việc tiến tới xoá bỏ cơ sở kinh tế - xã hội của sự bất công xã hội, phải đấu
tranh kiên quyết chống những hiện tượng tiêu cực, làm cho những nguyên tắc công
bằng xã hội và lối sống lành mạnh được khẳng định trong cuộc sống hàng ngày của
xã hội ta” (Đã dẫn, tr.57).
Nghị
quyết Đại hội VI ghi : “Chính sách xã hội nhằm phát huy mọi khả năng của con người
và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất. Coi nhẹ chính sách xã hội
cũng là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc” (Đã dẫn, tr.122).
Từ
các đoạn văn kiện trên đây, có thể rút ra một số ý như sau :
-
Chính sách xã hội bao trùm lên mọi mặt của cuộc sống con người, nó thống nhất
với chính sách kinh tế ; các vấn đề xã hội cần phải được đặt ra và giải quyết
ngay trong từng mục tiêu kinh tế.
-
Khi đặt ra các chính sách xã hội phải nhằm vào cái đích là phát huy mọi khả năng
của con người, với tính cách là chủ thể tích cực sáng tạo, tham gia vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chứ không phải con người làm thuê, cần được
ban ơn, làm phúc.
-
Nội dung của các chính sách xã hội phải được coi con người là mục tiêu của cách
mạng, là đối tượng cần phục vụ. Như vậy, phục vụ con người là mục đích cao nhất
của mọi hoạt động xã hội, kể cả các hoạt động sản xuất, lưu thông, phân phối,
giao thông, cũng như các hoạt động dịch vụ đáp ứng các nhu cầu xã hội và nhu
cầu tinh thần của con người. Trước đây ta thường nêu khẩu hiệu : “Tất cả cho
sản xuất”, nay cần nhấn thêm : “sản xuất để phục vụ con người”. Tư tưởng trên đây
cũng rất nhất quán với khẩu hiệu : “Tất cả vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc
của nhân dân”, nó cũng hoàn toàn nhất trí với tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
Tư
tưởng về chính sách xã hội và vai trò của con người trong sự nghiệp xây dựng xã
hội là một tư tưởng lớn của Đại hội VI. Đây cũng là một quan điểm lớn về văn
hoá.
Về
đại thể, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lê-nin khi xem xét vấn đề con người
thường đặt nó vào trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội. Tự nhiên, xã hội,
con người là ba yếu tố cơ cấu của thế giới hiện thực, trong đó con người đang
sống. Thế giới tồn tại và phát triển được là nhờ con người từng bước ý thức được
các mối quan hệ giữa nó với tự nhiên và nhất là các mối quan hệ giữa nó với xã
hội.
Tự
nhiên là cái có trước, nó là điều kiện cho sự hình thành con người sinh thể và
liền ngay đó là con người xã hội. Dù muốn hay không, con người vẫn phải dựa vào
tự nhiên để tồn tại như một sinh thể. Điều khác nhau cơ bản giữa con người và
sinh thể là ở chỗ nó không chỉ sống dựa vào tự nhiên một cách thụ động, mà còn
biết thích ứng tích cực với tự nhiên, khai thác và không ngừng cải tạo tự nhiên
để nâng cao điều kiện sống của mình. Động tác cải tạo tự nhiên đầu tiên của con
người là sự chế tạo ra công cụ lao động. Ăng-ghen đã xem quá trình chế tạo công
cụ lao động là tác nhân quan trọng và quyết định để chuyển biến từ vượn thành
người. Và, khi trở thành người, lập khác nó là con người xã hội.
Tóm
lại, con người thống nhất trong bản thân nó hai bản thể : gọi là thực thể sinh
học vì con người là một cơ thể sống, gọi là thực thể xã hội vì nó mang bản chất
xã hội.
Khác
với tự nhiên, xã hội ra đời cùng với sự ra đời của con người xã hội. Đến đây,
quy luật sinh học chỉ còn giữ vai trò thứ yếu, thay vào đó quy luật xã hội vận
hành như một động lực thúc đẩy lịch sử xã hội của loài người phát triển. Từ đây,
mọi công cụ lao động và sản phẩm do con người làm ra đều mang dấu ấn xã hội,
ngay cả ngôn ngữ, các giác quan, ý thức của con người cũng là sản phẩm xã hội.
Chính vì vậy, Mác đã nói : “Xã hội đã sản xuất ra con người”. Xã hội, theo quan
điểm Mác – Lê-nin, không phải là cái trừu tượng, bất biến, mà mỗi hình thái
kinh tế - xã hội thích hợp với một phương thức sản xuất nhất định ; khi phương
thức sản xuất biến đổi thì hình thái kinh tế - xã hội biến đổi theo. Nhân tố
quyết định cho phương thức sản xuất biến đổi là sự phát triển của lực lượng sản
xuất, bao gồm con người và công cụ lao động. Như vậy, không phải cái gì khác mà
chính là con người cùng với những công cụ lao động do nó tạo ra là nhân tố
quyết định làm biến đổi bộ mặt xã hội.
Vậy
nếu xã hội đã sản xuất ra con người “với tính cách là con người như thế nào,
thì con người cũng sản xuất ra xã hội như thế” (Các Mác : Bản thảo kinh tế,
triết học 1884. NXB Sự thật, Hà Nội, 1962, tr.130).
Luận
điểm nổi tiếng của Mác trên đây giúp ta hiểu mối quan hệ qua lại giữa con người
và xã hội. Xã hội sẽ sản xuất ra những con người hợp với nhu cầu của nó. Và con
người chỉ có thể sản xuất ra xã hội bằng cái vốn mà xã hội đã trang bị cho nó.
Cái vốn ấy chỉ có thể là kết quả của sự tác động tích cực của một chính sách xã
hội đúng đắn dựa trên một quan niệm hoàn chỉnh về con người và một sự coi trọng
thích đáng đến yếu tố con người.
Để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch sử cụ
thể hiện thời của đất nước, Đảng ta chủ trương phải tiến hành đồng thời ba cuộc
cách mạng : cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách
mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt.
Ba
cuộc cách mạng này có mối liên hệ tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ. Mỗi
thành tựu bất cứ về mặt nào đều là kết quả tổng hợp của ba cuộc cách mạng ấy.
Trong
cách mạng tư tưởng và văn hoá, Đảng ta lại đặt nhiệm vụ trung tâm là xây dựng
nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, vận dụng một
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, văn kiện Đảng phân tích : con người
vừa là chủ thể tích cực của xã hội, vừa là sản phẩm của xã hội ấy.
Từ
đó, có thể suy ra : con người Việt Nam
vừa là chủ thể tiến hành và thúc đẩy ba cuộc cách mạng, lại vừa là sản phẩm của
ba cuộc cách mạng ấy. Đây là một luận điểm rất đúng đắn và chính xác.
Xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh đất nước ta từ sản xuất nhỏ tiến lên sản
xuất lớn, bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa là một nhiệm vụ cực kỳ
khó khăn và phức tạp. Thực tế đòi hỏi chúng ta phải tạo ra được sự biến đổi từ
gốc đến ngọn, từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở kinh tế đến
cấu trúc thượng tầng, từ các lĩnh vực tư tưởng, kinh tế, chính trị, dẫn đến tư
tưởng, đạo đức, văn hoá và con người. Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
phải vượt qua muôn ngàn khó khăn như thế, đòi hỏi Đảng phải vận dụng linh hoạt
quan điểm cơ bản của triết học Mác – Lê-nin, phân tích sự tác động biện chứng
giữa nguyên nhân và kết quả về con người, với tư cách là chủ thể có ý thức của
xã hội, vừa là sản phẩm của xã hội. Nói cách khác, Đảng phải phát huy tính năng
động chủ quan của con người để tác động mạnh mẽ và có hiệu quả vào toàn bộ tiến
trình biến đổi cách mạng đó. Ở đây, khi vận dụng tính năng động chủ quan, cần
phải nắm vững và làm chủ các quá trình khách quan, biểu hiện dưới dạng những mối quan hệ qua lại phức tạp giữa các
mặt trong đời sống kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội và văn hoá – xã hội,
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan trong sự phát triển xã hội.
Mọi
người đều thừa nhận : làm cách mạng xã hội là nhằm thay đổi tận gốc những quan
hệ sản xuất xã hội, mở đường giải phóng cho lực lượng sản xuất phát triển. Tuy
vậy, điều đó không có nghĩa là mục đích của cách mạng là sản xuất. Đưa sản xuất
– xã hội lên những trình độ ngày càng cao hơn cũng không phải là mục đích tự
nó. Sản xuất là do con người tiến hành vì lợi ích của mình. Như vậy, chính con
người mới là mục đích của sản xuất, cũng tức là mục đích của cách mạng.
Khẳng
định con người là mục đích của cách mạng sẽ khắc phục được quan niệm thô thiển
xem con người chỉ như các phương tiện, công cụ, thực chất là hạ thấp vị trí và
vai trò của con người trong cách mạng. Hiện nay, quan sát toàn bộ các hoạt động
hết sức phong phú và phức tạp của đời sống xã hội, chúng ta nhận thấy ở nhiều nơi,
nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, cách đặt vấn đề con người chưa ăn khớp với
nguyên lý coi nó vừa là chủ thể, vừa là mục đích của cách mạng. Trong một số
cán bộ quản lý đã hình thành một ý thức tự nhiên, đôi khi biến thành tiềm thức,
thành nếp nghĩ quen thuộc về sự xem nhẹ yếu tố con người. Ý thức đó biểu hiện ở
tính chất không đồng bộ, thiếu cân đối trong
việc xây dựng các hệ thống chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước và phát triển kinh tế -
xã hội, trong việc bố trí cơ cấu ngân sách dành cho lĩnh vực các chính sách xã
hội. Dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích một số điểm như sau :
a)
Trong đời sống hiện thực của xã hội thường được phân chia thành hai khu vực :
khu vực sản xuất vật chất và khu vực không sản xuất vật chất, gọi tắt là khu
vực phi sản xuất. Nhưng trong khu vực phi sản xuất lại bao hàm nhiều việc quan
trọng, có tác động trực tiếp đến tái sản xuất mở rộng của khu vực sản xuất vật
chất. Đây là một điểm cần hết sức lưu ý, phần dưới sẽ phân tích kỹ.
b)
Khi đã định danh là khu vực phi sản xuất thì tức là quy nó thuộc khu vực tiêu
dùng, mà đã là tiêu dùng thì không có tích luỹ và ngược lại với tích luỹ. Hiển
nhiên là không có tích luỹ thì không có tiêu dùng, không sản xuất ra của cải
vật chất thì không có gì để tiêu dùng cả. Nhưng ai sản xuất ra của cải vật chất
? Mọi người đều thấy rõ là con người. Khoa học kỹ thuật phát triển sẽ làm gia tăng
năng lực của con người, nhân lên nhiều lần khả năng của con người. Tuy vậy, xét
đến cùng con người vẫn là yếu tố quyết định, là chủ thể tích cực trong sản
xuất.
c)
Từ sự phân tích trên, vấn đề đặt ra là : có khía cạnh con người trong khu vực
sản xuất vật chất và con người trong khu vực “phi sản xuất”. Con người khu vực
sản xuất được coi là “nhân lực”, là yếu tố lao động của sự sản xuất vật chất.
Còn con người hoạt động ở khu vực phi sản xuất thì phải chăng là những con người
tiêu dùng và hưởng thụ phúc lợi ?
Thực
ra, con người hoạt động ở khu vực sản xuất vật chất có những quan hệ không thể
cắt rời với con người trong khu vực phi sản xuất vật chất. Đó là đời sống của
cha mẹ, con cái của những người sản xuất và những người ấy chỉ có thể có trạng
thái tinh thần minh mẫn và điều kiện sức khoẻ tốt để hoạt động sản xuất, khi mà
cha mẹ họ được nuôi dưỡng tốt, con cái họ được học hành tốt, tóm lại là đời
sống gia đình họ được bảo đảm tốt.
Đẻ
con và nuôi dạy con cho tốt còn là chức năng “tái sản xuất thế hệ lao động mới”
của người lao động sản xuất. Thế hệ sau phải được phát triển cao hơn thế hệ trước
về thể lực, trí tuệ, tình cảm và các năng lực khác.
Rõ
ràng phải có những con người hoạt động ở khu vực “phi sản xuất vật chất” để đảm
bảo tái sản sinh ra thế hệ tương lai. Đó là các thày giáo, các bác sĩ, các người
nghiên cứu khoa học, văn nghệ sĩ và nhiều người khác nữa. Gần đây, các tài liệu
văn hoá học ở Liên Xô gọi họ là những người sản xuất tinh thần (Trong tác phẩm
Hệ tư tưởng Đức, C. Mác đã chia ra : Sự sản xuất vật chất và sự sản xuất ra ý
thức, ở đây chính là sản xuất tinh thần). Để nâng cao năng suất lao động thì
phải nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, dạy học, chữa bệnh và đào tạo, nâng cao đời
sống tinh thần cho người sản xuất và cho toàn xã hội. Thực tế cuộc sống đòi hỏi
như vậy.
d)
Vậy nên, khi xây dựng chỉ tiêu kế hoạch trong khu vực sản xuất vật chất cần
phải tính toán đầy đủ các nhu cầu của con người sản xuất. Có nhiều trường hợp
khi lập phương án đầu tư cho một cơ sở sản xuất, người ta thường chỉ mới tính đến
cơ sở vật chất, đến thiết bị kỹ thuật, đến yêu cầu về năng lượng, về nguyên vật
liệu, … chứ chưa chú ý đầy đủ, chu đáo đến những nhu cầu khác không kém phần
quan trọng của người lao động ; còn con người sản xuất thì lại chỉ được coi như
một “yếu tố lao động”, chỉ mới tính đến một số nhu cầu vật chất cụ thể để duy
trì “yếu tố lao động” này, chứ chưa xem đó là những con người với toàn bộ nhu
cầu sống phong phú của nó. Nhu cầu sống của con người phải gồm nhu cầu vật
chất, nhu cầu văn hoá của bản thân người lao động và của gia đình họ nữa. Mọi
người sống bình thường là không thể thiếu gia đình. Gia đình là tổ ấm tình cảm,
là môi trường giáo dục đầu tiên góp phần hình thành nên thế hệ nhân cách mới.
Tóm
lại, khi tính toán đầu tư cho một xí nghiệp công nghiệp hoặc một khu kinh tế
mới, nhất thiết phải tính toán đến những công trình văn hoá như các câu lạc bộ,
thư viện, rạp chiếu bóng, trường học, nhà trẻ, trạm xá hay bệnh viện. Tuy vậy, đôi
khi người ta vẫn thường có ấn tượng xem đó là những khoản chi xa xỉ mà trong
lúc nghèo chưa nên đặt ra, dùng khoản kinh phí ấy để xây thêm xí nghiệp khác.
Hoặc công trường đang xây dựng bị thiếu vốn, thì người phụ trách dễ dàng quyết định
cắt bỏ ngay những công trình văn hoá trước hết. Như vậy là quan niệm không đúng
về nhu cầu sống của con người, chưa quan tâm đến vai trò của con người vừa là
chủ thể vừa là mục đích của sản xuất.
Ở
nhiều xí nghiệp công nghiệp hoặc cơ sở sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, …
thường xảy ra một số tình trạng ngược nhau như : có giám đốc chỉ mới dốc sức
vào lo nguyên vật liệu, mặt hàng, khách hàng. Các vấn đề gọi là “đời sống” thì
cho là việc phụ, thường phân công cho một phó giám đốc kém năng lực, kém cả
quyền lực phụ trách. Trong các chương trình nghị sự, mục đời sống thường được
coi là mục phụ có thì giờ thì bàn, không có thì giờ thì bỏ. Ngược lại có giám đốc
khác, thường là những giám đốc thông minh năng động, đủ sức tính toán các mặt
tổ chức và kỹ thuật sản xuất, giải quyết tốt các vấn đề nguyên liệu, khách hàng
và mặt hàng, đồng thời đã dành sự quan tâm thích đáng để chăm lo đời sống cho
công nhân, như lo nhà ở, nhà ăn, quần áo, bệnh xá, ngày lễ, ngày tết, nhà trẻ,
trường học, văn nghệ quần chúng, câu lạc bộ và sân khấu ngoài trời, v.v…
Kết
quả cho thấy ở loại cơ sở thứ nhất tình hình sản xuất thường sút kém, đời sống
gặp nhiều khó khăn, công nhân thiếu phấn khởi. Còn ở loại cơ sở thứ hai thì có
không khí hào hứng phấn khởi mà hiệu quả sản xuất cũng tăng lên rõ rệt. Ở đây, mọi người từ giám đốc đến công nhân thường
có ý thức đúng đắn về vai trò chủ thể tích cực của mỗi người trong guồng máy
sản xuất. Như vậy, mọi người được chăm sóc và trong chừng mực nào đó có được
hạnh phúc trong lao động của mình, qua đó con người được hoàn thiện mọi mặt, được
nâng cao cả thể lực, tư tưởng, tình cảm, … Và về một phương diện nào đó, mỗi người
ở đây đã trở thành sản phẩm tốt đẹp của ba cuộc cách mạng, trong đó có hoạt động
sản xuất xã hội. Điều đó rất hợp với quy luật phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Mỗi người có điều kiện sản xuất ra của cải vật chất, đồng thời sáng tạo ra bản
thân mình. Tất nhiên, con người muốn được hoàn thiện và trở thành sản phẩm tốt đẹp
của lịch sử, còn cần phải tiếp nhận những tác động giáo dục cộng sản chủ nghĩa
từ nhiều cơ quan giáo dục của Đảng nữa.
Từ
những tình hình vừa phân tích trên đây suy rộng ra trong phạm vi toàn xã hội,
nhận thấy cần phải hoàn chỉnh quan niệm về vai trò con người trong nền sản xuất
xã hội. Thực ra, không ai phủ nhận vai trò con người cả, nhưng cần cụ thể hoá
quan niệm này thành những quy định hợp lý trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội. Một quan niệm đầy đủ về vai trò của con người, thể hiện ở hai phạm vi
như sau :
1)
Trong phạm vi một cơ sở sản xuất công nghiệp hoặc nông nghiệp, quan niệm về đầu
tư cơ bản phải bao gồm cả phần đầu tư cho đời sống của người sản xuất. Phải
dành sự quan tâm thích đáng tới việc đầu tư nhằm bảo đảm nhu cầu sống cho người
sản xuất, coi đó là việc cấp bách và thiết yếu, chí ít cũng phải ngang bằng
việc lo đầu tư nguyên vật liệu, thiết bị, năng lượng, … vì con người là một
dạng năng lượng đặc biệt của sản xuất. Đồng thời, quan niệm về nhu cầu sống của
con người phải bao gồm nhu cầu vật chất và nhu cầu văn hoá cho bản thân người
lao động và cho cả gia đình với tất cả mối lo toan cho sự tồn tại và phát triển
cái cộng đồng tự nhiên nhỏ bé nhưng rất đỗi thiêng liêng và bền vững. Mỗi con
người riêng biệt có những niềm vui, nỗi buồn, những lo toan riêng cần được mọi
người thông cảm và chia sẻ, để xoá bỏ tâm lý “cô đơn tập thể” sinh ra trong xã
hội công nghiệp. Phải khắc phục quan niệm coi các nhu cầu về gia đình là nhu
cầu của những người ăn theo, là gánh nặng cho sản xuất, là những phúc lợi cần
ban ơn bằng những phụ cấp và trợ cấp xã hội. Tất nhiên các chính sách xã hội có
thể được biểu hiện bằng các khoản trợ cấp và phụ cấp, nhưng cái chính là cần
thay đổi quan niệm, không thể xem các khoản trợ cấp đó như của “bố thí” có thì
cho, không thì thôi một cách tuỳ tiện. Thực hiện các chính sách xã hội phải là
mối quan tâm hàng đầu của người quản lý và điều hành sản xuất, phải thấy đó là động
lực quan trọng để đẩy mạnh sản xuất.
Trong
các thứ vốn bỏ ra để sản xuất thì con người vẫn là vốn quý nhất, không nên vừa
hô hào đẩy mạnh sản xuất vừa chờ đợi khi nào sản xuất phát triển mới lo đến các
nhu cầu của con người. Lo cho con người chính là đầu tư vào vốn quý nhất, là
kích thích vào động lực quan trọng nhất để phát triển sản xuất. Có lẽ khi
Xta-lin nói con người là vốn quý nhất là nói theo nghĩa bóng, nhưng vận dụng cụ
thể vào lĩnh vực sản xuất thì câu nói trên có một nghĩa đen rất cụ thể.
2)
Suy rộng ra trong phạm vi toàn xã hội, cần phải xây dựng quan niệm đầy đủ và đúng
đắn về hai khu vực : sản xuất vật chất và phi sản xuất vật chất. Bởi vì trong
cái gọi là khu vực “phi sản xuất” này, nổi bật lên các vấn đề của con người và
sự tác động trực tiếp của nó vào sản xuất vật chất. Chi phí cho khu vực phi sản
xuất không phải chỉ là tiêu phí, mà có nhiều khoản chi thực sự là để đầu tư cơ
bản và lâu dài vào lực lượng sản xuất. Chẳng hạn sự đầu tư vào đào tạo để nâng cao tri thức, kỹ năng và kỹ xảo của người
sản xuất, đầu tư vào các hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao là nhằm phát
triển con người toàn diện, nâng cao thể chất và tinh thần, là nhằm mang lại
hạnh phúc cho con người, từ đó mà phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của họ trong lao
động sản xuất ra của cải vật chất. Đây là sự đầu tư thông minh nhất, đem lại số
“lãi” lâu dài và cơ bản. Không nên suy nghĩ giản đơn và máy móc rằng : chỉ sau
khi đã có tích luỹ của cải vật chất mới có điều kiện mang lại hạnh phúc cho con
người ; ngược lại phải thấy rằng : muốn sản xuất ra nhiều của cải vật chất, thì
trước hết phải chăm lo cho cuộc sống hôm nay của người sản xuất. Đó chính là tư
tưởng nhân đạo chân chính của chủ nghĩa xã hội. Chăm lo cho con người là thực
hiện mục đích của chủ nghĩa xã hội ngay từ bước khởi đầu. Chăm lo cho con người
tuyệt nhiên không phải là sự ban ơn, sự phân phát “lòng tốt” của các nhà quản
lý để vỗ về những người lao động.
Xem
con người là vốn quý nhất như một nguyên tắc trong chỉ đạo các hoạt động sản
xuất xã hội, còn dẫn đến quan niệm hoàn chỉnh về hai khái niệm tích luỹ và tiêu
dùng. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần phải có vốn, ấy là sự tích luỹ của cải
vật chất, như tích luỹ tiền bạc, xăng dầu, sắt thép, máy móc, vật liệu xây
dựng, v.v… Nhưng bản thân sự tích luỹ không có mục đích tự nó, tích luỹ là để
tiêu dùng một cách hợp lý số vốn đó. Và trong tiêu dùng thì lại có một phần
tiêu dùng cho các nhu cầu sống của con người. Ở đây, tiêu dùng cho các nhu cầu
sống chính lại là sự tích luỹ con người. Đó là sự tiêu dùng cho các hệ thống
giáo dục để đào tạo con người, tiêu dùng cho các sự nghiệp để bảo vệ, nâng cao
sức khoẻ, để phát triển tốt nòi giống và kéo dài tuổi thọ ; tiêu dùng cho đời
sống văn hoá tinh thần để rèn luyện ý chí, nâng cao tình cảm, đem lại hạnh phúc
cho con người.
Như
vậy, sự tiêu dùng nói trên đây không hề là tiêu phí, làm tổn hại của cải vật
chất của xã hội, mà là sự tích luỹ thứ vốn quý giá của xã hội là con người làm
cho nó có thể chất tốt, kỹ năng lao động cao và có sự phát triển tinh thần tốt đẹp.
Đó là một sự tích luỹ cao quý, vì nó mang lại cho xã hội một sản phẩm cao quý
là những con người ngày càng được hoàn thiện hơn. Xây dựng con người mới không
phải chỉ là nhiệm vụ của công tác văn hoá hay của cách mạng tư tưởng và văn
hoá, mà là nhiệm vụ tổng hợp của ba cuộc cách mạng. Không nên tách rời chiến lược
kinh tế xã hội với chiến lược con người. Khi ta nói chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội là phải dựa trên quan niệm đúng đắn về vai trò con người, con người
chủ thể sáng tạo và con người sản phẩm của xã hội.
Nếu
quan niệm trình bày ở trên được công nhận thì đề nghị phải xem xét lại kết cấu
của các kế hoạch Nhà nước và kết cấu của ngân sách Nhà nước. Không nên quan
niệm một cách máy móc và tách rời giữa khu vực sản xuất vật chất và khu vực phi
sản xuất vật chất, tách rời và đối lập hai mặt tích luỹ và tiêu dùng chỉ trong
phạm vi sản xuất vật chất. Phải lấy con người
với toàn bộ nhu cầu sống của nó, bao gồm nhu cầu vật chất và nhu cầu văn hoá
của bản thân người sản xuất cùng với gia đình họ như một tổ hợp nhu cầu của
nhóm xã hội cơ bản – gia đình – để tính toán các kế hoạch kinh tế - xã hội và
ngân sách. Đó là điều hợp với quy luật của chủ nghĩa xã hội và chắc chắn sẽ
mang lại hiệu quả tích cực cho việc phát triển kinh tế - xã hội.
Tóm
lại, nhìn nhận con người như là mục tiêu của cách mạng, như một chủ thể tích
cực và như một sản phẩm sáng tạo của toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa và thể hiện điều đó vào trong các chính sách xã hội, đó là một quan điểm
văn hoá lớn của Đại hội Đảng lần thứ VI.
Chương
II
Về phương hướng xây dựng văn hoá - vấn
đề bản sắc dân tộc của văn hoá
1)
Về
bản sắc dân tộc của văn hoá
Nghị
quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng có ghi một câu : “Xây dựng một nền
văn hoá, văn nghệ xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc” (Tạp chí Cộng sản
tháng 1-1987. Số đặc biệt về Đại hội VI của Đảng, tr.122. Trong Nghị quyết ghi
là “Xây dựng một nền văn hoá, văn nghệ”, nhưng ở đây chỉ bàn về xây dựng văn
hoá theo nghĩa văn nghệ là bộ phận nằm trong văn hoá). Đây là vấn đề hết sức
thú vị, nhưng cũng rất gai góc, vì chưa mấy ai lý giải được rõ ràng. Dưới đây
sẽ cố gắng phân tích để đi đến một cách hiểu nhất quán, làm chỗ dựa cho phương
hướng xây dựng văn hoá.
Trong
các lĩnh vực văn hoá, ta hay bàn đến tính dân tộc : tính dân tộc trong văn học,
tính dân tộc trong âm nhạc, tính dân tộc trong hội hoạ, trong kiến trúc, v.v…
Khi bàn như thế, hình như ta quan niệm cái tính là cái tính cách, là cái cách
biểu hiện. Cho nên có nhà nghiên cứu đã phân biệt cái tính dân tộc - thuộc tính
và cái tính dân tộc - phẩm chất. Phải chăng khi ta nói tính chất là ta muốn nói
“cái gì”, còn khi ta nói tính là ta muốn nói cái “thế nào ?” hay cái tính chất
là gồm cả cái “cái gì” và cái “thế nào ?”.
Mấy
năm trước đây trong một vài cuộc hội thảo khoa học về văn hoá, chúng ta đã đề
cập tới cụm từ “bản sắc dân tộc của văn hoá” hay là “bản sắc văn hoá của dân
tộc”. Rõ ràng bản sắc là một từ
hay được nhắc đến và đúng là cái cần tìm hiểu.
Bản
sắc là gì ? Dựa vào nhiều ý kiến đã phát biểu của các nhà nghiên cứu thì bản
sắc là sắc thái của cái bản chất, cái gốc, cái vốn có của một dân tộc. Nó là
cái tinh tuý và là cái tổng hoà của các giá trị được biểu hiện ra chủ yếu ở văn
hoá tức là ở ngôn ngữ, nghệ thuật, kiến trúc, đạo đức, lối sống. Nó là cái sắc
thái hay là màu sắc đặc biệt, màu sắc gốc gác của cái vốn liếng riêng của dân
tộc làm cho người ta nhận biết ngay ra diện mạo tinh thần của dân tộc ấy mà không
lẫn với các dân tộc khác. Nó là cái vốn, nó lại tạo ra cái gọi bản lĩnh của dân
tộc, vì cái gốc đó là nguồn sức mạnh của dân tộc, dân tộc nhờ có sức mạnh đó mà
tồn tại, mà chiến thắng, mà phát triển. Một dân tộc giữ được bản sắc của mình,
tức là giữ được bản lĩnh của mình, giữ được sức mạnh của mình, mất bản sắc thì
mất nhiều thứ khác, thậm chí có nguy cơ bị đồng hoà với các dân tộc khác mạnh hơn.
Bản sắc là cái gì cực kỳ quý giá của một dân tộc. Giữ được bản sắc là giữ được độc
lập về tinh thần, về văn hoá. Nhưng bản sắc lại là một cái gì đó thể hiện ra
trên rất nhiều mặt linh hoạt, uyển chuyển.
a)
Bản sắc của một dân tộc luôn luôn có sự thay đổi, sự phát triển, nhưng lại luôn
luôn có một cái gì đó bền vững ổn định, là dấu hiệu đặc biệt của diện mạo tinh
thần của dân tộc đó. Vì vậy khó có thể nói có bản sắc cũ và bản sắc mới, như có
người nói : “Nước ta trước đây là nước nông nghiệp lạc hậu, phong kiến, lịch sử
đã tạo nên cho ta một bản sắc dân tộc mang tính nông nghiệp phong kiến lạc hậu,
nay ta phải phủ nhận cái bản sắc đó để xây dựng và tạo nên một bản sắc mới”.
Thực ra, bản sắc là cái gì hình thành do sự tích luỹ của lịch sử trong đó có
những yếu tố bền vững ổn định, và trong sự phát triển liên tục không chia cắt được
của nó, nó vẫn giữ cái đặc sắc của nó làm cho dân tộc này không lẫn với dân tộc
khác.
b)
Bản sắc của một dân tộc có phải là gồm những phẩm chất, đức tính hay giá trị mà
chỉ có dân tộc đó có mà dân tộc khác không có không ? Không phải ! Có thể có
những phẩm chất mà nhiều dân tộc cũng có, nhưng ở mỗi dân tộc lại có một cái gì
đó khác, có cách biểu hiện khác mà ngay trong cái phẩm chất đó cũng có một cái
gì riêng biệt, có mùi vị, màu sắc riêng, nó quy định cách biểu hiện khác.
Chính
cái đó tạo nên bản sắc. Bản sắc không phải là số cộng những giá trị truyền
thống, mà nó là màu sắc gốc của bản chất dân tộc, là cái sắc thái vốn có riêng
của một dân tộc. Có thể có nhiều dân tộc có những giá trị truyền thống giống
nhau, nhưng vẫn có bản sắc khác nhau.
c)
Bản sắc dân tộc là những cái đã được hiện thực hoá trong toàn bộ dân tộc hay
chỉ là những điều lý tưởng mong ước, những điều phân tích suy luận ra. Thực ra,
hiện thực xã hội của một dân tộc cũng rất phức tạp. Bản sắc là tinh tuý của
những giá trị đã được hình thành trong lịch sử, đã được hiện thực hoá trong đa
số nhân dân hoặc trong một giai đoạn lịch sử tạo nên vẻ thịnh vượng, đẹp đẽ của
giai đoạn đó. Tất cả những cái đó được cả cộng đồng dân tộc thừa nhận, ca tụng,
đánh giá và mơ ước. Cái đó là bản sắc. Vì vậy nó đã được hiện thực hoá và còn đang
được hiện thực hoá ở trình độ cao hơn. Nó là những cái tinh tuý được cô đọng
lại, đúc kết lại, tinh lọc lại thành tài sản, thành lý tưởng chung của một dân
tộc. Tất nhiên ngay cả khi đã như thế trong cộng đồng dân tộc cũng vẫn có thể
nảy nòi một số phần tử “mất gốc” không thừa nhận, phỉ báng những giá trị đó,
những tinh tuý đó, cái bản sắc đó. Khi ấy rõ ràng ta có những kẻ mất gốc, những
kẻ mất bản sắc dân tộc của mình. Những kẻ này sẵn sàng mất luôn cả bản thân và
sẵn sàng trở thành nô lệ cho dân tộc khác.
d)
Bản sắc dân tộc là một cái gì đó đã được tinh lọc và nó thường biểu hiện tập
trung nhất trong văn hoá và rõ nhất ở ngôn ngữ, nghệ thuật, lối sống, đạo đức,
cho nên nó biểu hiện rõ nhất và tập trung nhất ở tính cách con người, tâm hồn
con người. Ở các lĩnh vực khác như các hoạt động chính trị, ngoại giao, luật
pháp, kinh tế, v.v… cũng có thể thấy nó biểu hiện, nhưng nó biểu hiện ở khía
cạnh văn hoá của các lĩnh vực đó và rõ nhất ở các con người hoạt động trong các
lĩnh vực ấy. Nó biểu hiện ở nhiều chỗ khác nhau và biểu hiện một cách nhất
quán, nghĩa là nó là “một cái gì đó”, ta bắt gặp nó trong âm nhạc, ta cũng gặp
nó trong hội hoạ đúng “cái ấy”, ta lại gặp nó trong phong tục tập quán, trong
hành vi ứng xử con người cũng đúng “cái ấy”, chứ không phải cái gì khác. Nó tạo
nên một dấu hiệu đặc biệt để một dân tộc trong biểu hiện văn hoá của mình không
lẫn với dân tộc khác.
e)
Trong điều kiện có sự giao lưu, trao đổi ngày càng sôi nổi và dày dặc trên thế
giới, liệu bản sắc có sự pha trộn không ? Trong lịch sử phát triển của mình,
mỗi dân tộc đều có những tiếp xúc với các dân tộc khác khi bị xâm lược hoặc đi
xâm lược hoặc trao đổi buôn bán, vậy bản sắc hình thành nên cho đến ngày nay,
có còn thuần tuý không ? Điều này nhiều nhà khoa học thế giới cũng đã xác nhận
là khó có tính dân tộc thuần tuý. Nhưng bản sắc của một dân tộc thì lại có sự
vận động rất khắc nghiệt : hoặc là ngày càng vững chắc, sâu sắc cao hơn lên
hoặc là bị suy thoái rồi mất hẳn đi. Trong
quá trình tiếp xúc, trao đổi, bản sắc của một dân tộc tất nhiên có gặp những
yếu tố khác tác động. Nhưng khi bản sắc đó mạnh mẽ sâu sắc, nó sẽ tiếp thu
những gì cần thiết cho nó gần gũi với nó, làm cho nó vững bền hơn, phong phú và
sâu sắc hơn, chứ không phải nó bị pha loãng ra như pha rượu vào nước lã. Ngược
lại, khi gặp những giá trị khác, những bản sắc khác mạnh hơn, nó bị đẩy lùi và
bị thay thế, nó tự trầm đi. Một dân tộc ý thức được bản sắc của dân tộc mình và
tránh được nguy cơ bị đồng hoá. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh sức sống của bản sắc dân tộc của Việt Nam.
g)
Trong thời đại công nghiệp hoá và cách mạng khoa học – kỹ thuật phát triển vũ
bão, liệu có giữ nổi bản sắc dân tộc hay không ? Đây đúng là vấn đề ta đang
phải quan tâm. Quả thật quá trình công nghiệp hoá, áp dụng khoa học kỹ thuật
trong mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống, ở rất nhiều chỗ, bản sắc dân tộc bị
phá vỡ, con người ở chỗ nào cũng phải sống và làm việc, đi lại, giao tiếp với
nhau trong những điều kiện giống nhau, nhà ở giống nhau, thức ăn giống nhau,
quần áo giống nhau, phương tiện đi lại giống nhau, ngôn ngữ cũng phải quốc tế
hoá nhiều, văn học nghệ thuật cũng trao đổi phong phú và sôi nổi.
Trong
khi ấy các đế quốc lớn, nhất là đế quốc Mỹ, sau đó là Nhật, Tây Đức lại làm
tràn ngập thế giới những hàng tiêu dùng với kỹ thuật và chất lượng cao nhằm điều
kiện hoá cuộc sống của mọi người ở khắp ngóc ngách trên thế giới, phá vỡ tận
gốc nhiều truyền thống dân tộc lâu đời. Bọn chúng muốn “thế giới hoá” văn hoá
bằng con đường thế giới hoá kinh tế và kỹ thuật. Tình hình này đặt ra cho mỗi
dân tộc đang phát triển phải suy nghĩ bước đường đi của mình. Không thể nào
chối bỏ mọi tiến bộ khoa học kỹ thuật, ngược lại phải nhanh chóng chiếm lĩnh
lấy nó. Nhưng chiếm lĩnh nó như thế nào để bản sắc dân tộc mình không bị phá
vỡ, không bị mất đi. Ngoài vấn đề ý thức sâu sắc của những người lãnh đạo cũng
như của tất cả cộng đồng dân tộc, còn có những vấn đề như : định phương hướng
và bước đi cho thích hợp, vấn đề nắm thật chắc, thật vững di sản dân tộc của
mình để sử dụng nó, phát triển nó trong điều kiện mới. Việt Nam
là một đất nước có nhiều dân tộc thiểu số, nhiều địa phương có những truyền
thống văn hoá khác nhau. Cho nên ngoài bản sắc Việt Nam
chung cho cả cộng đồng dân tộc, Việt Nam
còn có những bản sắc của từng tộc người (hay dân tộc thiểu số), bản sắc của
từng địa phương. Tất cả những bản sắc riêng của từng tộc người – trong đó có
tộc người Việt Nam, được
gọi là tộc người chủ thể của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam,
từng địa phương kết hợp thành cái bản sắc chung Việt Nam. Bản sắc Việt Nam
lại là cái bản sắc riêng trong cộng đồng chung của thế giới.
Đến
đây ta đã thấy rõ bản sắc dân tộc là một vấn đề rất khó, rất sâu và rất phức
tạp. Nó là một cái gì ta có thể tìm thấy, diễn giải nó ra để mọi người cũng
nhận thức hay nó chỉ là một cái gì trừu tượng mơ hồ, ta chỉ có thể cảm nhận
thấy, mà không nhận thức và diễn giải được ? Đúng là vấn đề rất khó xử lý, nhưng
chúng ta cần mạnh dạn đặt vấn đề ra để tìm hiểu. Về phương pháp, có ý kiến cho
rằng cần phải có một cách làm rộng lớn và lâu dài : ở mỗi lĩnh vực cụ thể của văn
hoá, mỗi loại hình văn nghệ, cần có một công trình sưu tầm, khảo sát, phân tích
tất cả những di sản ta có, để tìm ra cái gì là tinh tuý nhất của lĩnh vực đó,
rồi ta đem so sánh đối chiếu cái tinh tuý của các lĩnh vực khác nhau ấy, tìm
chỗ tương đồng, tìm chỗ quan hệ nhất quán, từ đó tổng hợp, tổng kết, mới có thể
chỉ ra cụ thể cái bản sắc dân tộc của văn hoá.
Thực
ra đó là một phương pháp đúng đắn và cần thiết. Nhưng công việc triển khai như
vậy yêu cầu một tổ chức rộng lớn phức tạp, một sự điều hành lớn và một sự phối
hợp khó khăn, một thời gian khó hạn định. Hiện nay từng môn khoa học cũng đã có
làm một số việc, nhưng phải chờ đợi sau này có những kết quả nghiên cứu, mới
tổng hợp, tổng kết được. Trong khi những
việc ấy cứ tiến hành, ta vẫn nên triển khai một phương pháp khác : phương pháp
dựa vào cách nhìn tổng quan các mặt và đi thẳng vào phân tích tìm tòi cái ta
muốn tìm. Phương pháp này dựa vào sự tích luỹ của một số nhà khoa học lão
thành. Đó là sự tích luỹ kiến thức lịch sử, tích luỹ vốn sống, tích luỹ sự hiểu
biết những tính cách tâm hồn hàng nghìn con người mà các vị đã cùng sống và đã
gặp. Sự tích luỹ ấy có thể coi như những chùm ánh sáng kỳ diệu soi rọi vào vấn đề
phức tạp và khó khăn này làm cho ta nắm bắt được. Rồi kết quả của sự soi rọi ấy
lại tác động tốt đến các công việc nghiên cứu của các lĩnh vực, các ngành trong
văn hoá nói chung.
Việc
nghiên cứu vấn đề bản sắc dân tộc trong lúc này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nêu cao ý thức về bản sắc dân tộc lúc này để thức tỉnh những ai mơ hồ về lịch
sử dân tộc, suy giảm lòng tự hào dân tộc, mơ hồ về cái giá trị truyền thống, bị
đầu độc về những thành tựu văn minh kỹ thuật, rơi vào khuynh hướng “thế giới
chủ nghĩa” hư vô, tổn thương đến lòng yêu nước, yêu quê hương, mất tự tin và
mất lòng tin vào dân tộc. Tất cả những tình trạng mơ hồ ấy đều là điều mà các
loại kẻ thù của ta mong muốn. Ý thức về bản sắc dân tộc còn thức tỉnh ai mơ hồ
về cái cũ cái mới, mù quáng trước cái mới, phủ nhận mọi giá trị và chỉ công
nhận có một giá trị là cái gì mới, cái gì không cũ, điều này cũng dễ dẫn tới
chỗ “mất gốc” không thừa nhận tổ tiên, không thừa nhận gốc gác mình.
Ý
thức về bản sắc dân tộc bồi dưỡng cho ta lòng yêu nước, chỉ cho ta phương hướng
xây dựng nền văn hoá dân tộc và cả phương hướng xây dựng kinh tế, xây dựng xã
hội trên bản sắc của dân tộc ta, phù hợp với các điều kiện thiên nhiên, truyền
thống của ta. Phương hướng xây dựng như vậy sẽ có hiệu quả hơn, củng cố nền độc
lập dân tộc tốt hơn.
Riêng
về văn hoá, có nhận thức được rõ bản sắc dân tộc mới nắm chắc được cái gốc của
vấn đề tính dân tộc, cái bản chất của tính dân tộc vận dụng vào việc xây dựng
lối sống, nếp sống, phong tục tập quán, vận dụng vào các loại hình nghệ thuật để
tạo nên một nền văn hoá xã hội chủ nghĩa với bản sắc dân tộc rõ rệt. Một nền văn
hoá có tính chất dân tộc là một nền văn hoá mang đầy đủ bản sắc của dân tộc
mình. Mỗi lĩnh vực khác nhau của văn hoá,
nghệ thuật nếu tìm được cái gọi là bản sắc dân tộc trong lĩnh vực đó thì có thể
nắm bắt được cái tinh tuý, cái cốt lõi của tính dân tộc, từ đó định ra cho mình
được phương hướng, phương pháp để phát triển lĩnh vực của mình cho phù hợp với
thời đại. Không thể chỉ loay hoay trong việc liệt kê các chi tiết, phân tích
các chi tiết rồi đi tới những quyết định giữ chi tiết này, bỏ chi tiết kia là
giải quyết được vấn đề văn hoá có tính chất dân tộc. Cũng không thể khẳng định
nguyên tắc : “lấy thời đại làm tiêu chuẩn để quyết định vấn đề kế thừa phát
triển”, hoặc nguyên tắc “lấy dân tộc làm tiêu chuẩn để tiếp thu những giá trị văn
hoá mới của thời đại”, như kiểu những khẩu hiệu thô thiển “lấy xưa vì nay”,
“lấy ngoài vì trong” hay “hậu kim bạc cổ”.
Phải tìm được bản sắc dân tộc, ý thức được bản sắc đó
sâu sắc, làm cho bản sắc đó thấm đượm trong mọi tâm hồn sáng tạo và thúc đẩy
mọi sự phát triển văn hoá thì chúng ta mới thực hiện được tinh thần “kết tinh
lại và nâng lên tầm cao mới” mọi giá trị truyền thống của dân tộc, mới thực
hiện được sự phát triển văn hoá kịp yêu
cầu thời đại mà vẫn có bản sắc dân tộc, vẫn phát triển bản sắc dân tộc kịp thời
đại mà không bỏ mất vốn quý của dân tộc.
Ý
thức về bản sắc dân tộc làm cho thanh niên nâng cao bản lĩnh sống của mình, đứng
vững trước những cám dỗ, những sự tấn công của các loại nguỵ đạo đức, nguỵ
triết lý, xứng đáng là những con người mới xã hội chủ nghĩa của nước Việt Nam
anh hùng. Chúng ta có thể vui mừng mà nhận xét rằng các nghệ sĩ sáng tác của ta
trong âm nhạc, trong nghệ thuật tạo hình, trong sân khấu, trong điện ảnh, trong
văn chương đều đã tỏ ra có ý thức về bản sắc dân tộc và có những thành tựu tốt đẹp,
đặc biệt trong ca khúc (âm nhạc). Nhưng rõ ràng những thành tựu ấy cũng chứng
tỏ một tình trạng còn chưa vững chắc, chưa ổn định, chưa đủ tự tin. Chúng ta
cần làm việc nhiều hơn để cả nền văn hoá của ta phát triển theo hướng củng cố
và nâng cao bản sắc dân tộc của ta một cách vững vàng, ổn định và tự tin hơn,
có những thành tích độc đáo hơn. Phải nói là các bạn trên thế giới cũng mong đợi
ta, đòi hỏi ta về mặt này. Các bạn hoàn toàn không muốn ta bắt chước thế giới
mà đánh mất ta đi ! Cũng như họ không muốn ta cứ loanh quanh với những cái gì
cổ lỗ lạc hậu của ta mãi.
Vấn
đề bản sắc dân tộc đặt ra lúc này là lúc mà cách mạng khoa học kỹ thuật phát
triển như vũ bão, sự giao lưu quốc tế về nhiều mặt tăng lên mạnh mẽ cả về cường
độ và tần độ. Tình hình đó làm nảy sinh ra nhiều yếu tố phá vỡ bản sắc dân tộc,
làm mơ hồ ý thức về bản sắc dân tộc và lòng tự hào dân tộc cũng như mơ hồ về
tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa. Chỉ có một ý thức đúng đắn về dân tộc mới
có thể ý thức đúng đắn về quốc tế, hai mặt ấy không bài trừ nhau mà củng cố cho
nhau.
Nêu
rõ vấn đề bản sắc dân tộc hiện nay trước hết là để củng cố và phát triển ý thức
dân tộc, lòng yêu nước và lòng tự hào dân tộc chân chính.
Ta
cần xây dựng một bản lĩnh dân tộc vững chắc, làm nền tảng và cơ sở cho lòng tự
tin dân tộc để phát triển sự giao lưu, tiếp thu các giá trị văn hoá thế giới,
làm cho sự tiếp thu đó lại bồi bổ cho vững chắc thêm và phong phú thêm bản sắc
dân tộc, chứ không phá vỡ nó đi, đồng thời ta có khả năng đóng góp làm phong
phú thêm văn hoá thế giới.
Mặt
khác, tìm bản sắc dân tộc là tìm cái cốt lõi, cái tinh tuý của tính dân tộc ở
mỗi lĩnh vực cụ thể của văn hoá và nghệ thuật.
Đó
là phương hướng để ta có thể đi vào bản chất của tính dân tộc, mà không phải
loanh quanh trong việc lựa chọn giữ hoặc bỏ chi tiết này hay chi tiết khác.
Những chi tiết thường gắn liền với hình thức biểu hiện, là những chi tiết của
hình thức. Nắm được cái cốt lõi, cái tinh tuý nhất, ta sẽ tìm được phương hướng
phát triển tính dân tộc trong mọi lĩnh vực một cách nhất quán và chính xác.
Bản
sắc dân tộc không phải chỉ là vấn đề của văn hoá dù tính đến cả các mặt văn hoá
vật chất như ăn, mặc, ở, v.v… Bản sắc dân tộc còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội
lớn, nó cần được nhận thức trong cả các vấn đề tổ chức dân cư, tổ chức lao động,
phát triển ngành nghề, xác định nguồn nguyên liệu và phương hướng công nghệ,
v.v… và khi ấy nó vẫn là những vấn đề văn hoá với ý nghĩa rộng hơn, nhưng nếu
không quan tâm đến nó thì có thể một số thành tựu kinh tế, kỹ thuật nào đó làm
hại đến bản sắc dân tộc của văn hoá và của toàn bộ đời sống xã hội của đất nước.
Vấn
đề bản sắc dân tộc vừa có ý nghĩa văn hoá, cả văn hoá đạo đức và văn hoá thẩm
mỹ, vừa có ý nghĩa chính trị xã hội và cả kinh tế nữa. Nhưng chủ yếu nó vẫn là
vấn đề văn hoá. Ta nói bản sắc dân tộc của văn hoá, hay nói bản sắc văn hoá của
dân tộc thì cũng cùng một ý nghĩa mà thôi. Ở Việt Nam
ta có bản sắc chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam,
lại có bản sắc của tộc người Việt, của các tộc người thiểu số khác. Cái bản sắc
dân tộc của ta đang vận động và phát triển, nhưng sự vận động, phát triển ấy
theo hướng từ một cái gốc phát triển lên phong phú hơn, cao hơn. Đây là sự phát
triển trong một quá trình liên tục, có thể diễn ra nhanh hoặc chậm, nhưng không
thể có sự đứt đoạn hay sự phủ định sạch trơn, để thay vào đó cái bản sắc hoàn
toàn mới lạ.
2)
Bàn
về bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam
Trước hết ta hãy xem bản sắc dân tộc là một cái gì, hay
là những cái gì đó.
Thực
ra bản sắc dân tộc mà quy vào “một cái gì” thì khó. Bản sắc vốn là cái gì trừu
tượng biến hóa uyển chuyển linh hoạt. Nó là một, nhưng lại là nhiều, là nhiều
nhưng tụ lại thành ra một. Nếu là nhiều cái có thể thu xếp để liệt kê, để cộng
lại thì lại thành ra liệt kê bảng giá trị truyền thống và, khó tìm ra sự biểu
hiện nhất quán. Nhưng nếu là một cái thì làm sao nó mô tả hết được cái phong
phú, cái lung linh của diện mạo tinh thần của một dân tộc, một con người. Cho
nên, tôi tạm cho rằng nó là “một”, nhưng cái “một” này là “một” đặc biệt, nó
biến hoá, nó lung linh, nó có thể toả ra “nhiều”, cái “nhiều” này xen cài nhau,
quấn quýt, hoà trộn nhau vào trong “một”.
Một
nhà nghiên cứu đã nêu lên : một khía cạnh của bản sắc dân tộc ta là cái anh
hùng bình dị. Như thế cái tính cách chung của Việt Nam
là anh hùng, anh hùng nhưng bình dị, không khoa trương, không cường điệu, không
ầm ỹ. Bình dị nhưng lại rất anh hùng. Một thứ anh hùng bình dị và một cái bình
dị rất anh hùng. Anh bộ đội Việt Nam,
anh bộ đội Cụ Hồ trong suốt thời gian của hai cuộc kháng chiến dài mấy chục năm
thật là một hình ảnh sinh động và rõ rệt của cái chất “anh hùng bình dị”. Bất
cứ ai gặp và nhìn thấy, tiếp xúc với các chiến sĩ của ta đều có ấn tượng rất rõ
rệt : Sao mà anh ta hiền thế ! Đúng. Anh rất hiền, rất khiêm tốn, rất “bình thường”
nhiều khi còn “cả thẹn” nữa. Thế nhưng anh lại làm nhiều chuyện phi thường, lập
nhiều chiến công kỳ diệu, nhiều hành động anh hùng thật lẫm liệt. Anh lập những
chiến công lớn cũng lại bình thường như anh lao động, học tập hàng ngày. Anh có
cuộc sống thật bình dị anh hùng, thật Việt Nam !
Tôi tán thành cách khái quát này, nhưng vẫn e nó chưa chứa đựng hết, dù cho chỉ
là hết những điều chủ yếu nhất. Một cách diễn giải khác chỉ ra bản sắc Việt Nam
có ba điểm (hay ba mặt), ba điểm này quyện lại xoay quanh một cái, một cái đó
là cái Việt Nam, cái chất Việt Nam, cái tính cách Việt Nam, tâm hồn Việt Nam.
Theo
ý kiến tôi, kết cấu bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam
gồm ba điểm. Đó là :
-
Tinh thần yêu nước anh dũng kiên cường và sâu sắc trong ý chí,
-
Tính cách bình dị của tâm hồn,
-
Quan hệ giữa người và người là tình nghĩa.
Tinh
thần yêu nước Việt Nam đã
được ta nói đến nhiều và thế giới cũng nói đến nhiều. Đến nay bàn thêm khó có điều
gì nói thêm được. Nhìn lại ta thấy tinh thần yêu nước Việt Nam
nổi lên mấy nét : rất kiên cường, anh hùng bền vững và sâu sắc, tinh thần yêu nước
gắn liền với ý thức cội nguồn, tôn trọng yêu mến cội nguồn tổ tiên, thờ phụng
tổ tiên như một lẽ sống của mỗi người. Điều đó ẩn sâu trong mỗi người, có lúc
nó bị chìm hẳn đi, hầu như bị quên mất hẳn, nhưng mỗi khi có điều kiện khơi dậy
nó lại bùng cháy mãnh liệt làm nên sức mạnh tinh thần to lớn. Chúng ta đều thấy
lịch sử dân tộc ta đã trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, thế nhưng không ai quên
ông Tổ mình là Vua Hùng, không ai quên nguồn gốc mình là từ “con rồng cháu
tiên” cao quý. Ngay từ rất sớm, Hai Bà Trưng nổi dậy cũng với ý thức “nối
nghiệp vua Hùng”. Tất cả các lãnh tụ khởi nghĩa chống ngoại xâm này đều nêu cao
nguồn gốc dân tộc để động viên, tập hợp nhân dân chiến đấu. Cho đến ngày nay
câu nói của Bác Hồ xúc động sâu xa lòng người nhiều cũng là câu : “Các Vua Hùng
đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Người Việt Nam
dù cho dưới thời phong kiến, yêu nước không phải là yêu vua mà là yêu đất nước,
quê hương, tổ tiên. Ông vua nào chiến đấu cho tình yêu ấy thì được dân tin yêu,
dân tin yêu vua không phải vì vua là con trời, chịu mệnh trời, mà là vua thay
mặt nhân dân lãnh đạo nhân dân bảo vệ lấy đất nước, quê hương và nguồn gốc tổ
tiên. Ông vua nào làm ngược lại thì nhân dân khinh ghét và sẵn sàng chống lại.
Nơi thiêng liêng nhất của mỗi người Việt Nam
là mả Tổ, ngày thiêng liêng nhất là giỗ Tổ, hành động xúc phạm nhất là hành động
“đào mả Tổ”, lời chửi cay độc nhất cũng là lời đe dọa “đào mả Tổ”.
Yêu
nước là một tình cảm ăn vào máu thịt người Việt Nam,
không bao giờ nguôi, không bao giờ quên, không bao giờ nhạt, không bao giờ mất.
Chỉ có lúc nước tạm thời bị chiếm thì dân ta phải che giấu nó, đến khi ta giành
được chính quyền, có điều kiện thì nó lại bộc lộ ra đầy đủ. (Tất nhiên vẫn phải
loại trừ một số nhỏ người “mất gốc”). Vì vậy, lịch sử nước ta có nhiều cuộc
chiến đấu giành độc lập kiên cường rất dài ngày. Nhà Trần ba lần chuẩn bị và
tiến hành kháng chiến trong 20 năm, Lê Lợi mười năm, Hồ Chí Minh ba mươi năm
bôn ba tìm đường cứu nước và cuộc chiến đấu toàn dân kéo dài ba mươi năm nữa. Có
nhiều chiến sĩ giành nửa đời người hoặc cả đời người, chịu một cuộc sống trăm
nghìn gian khổ, cực nhục vẫn nuôi chí bền cứu nước. Có những cuộc vùng dậy với
khí thế nhất tề như vũ bão đánh bạt mọi uy vũ, mọi sự đe doạ của ngoại bang. Có
những địa phương, những nhóm người mà quân xâm lược tưởng đã hoàn toàn khuất
phục được, bất ngờ lại quật lại ngay trong lòng và sau lưng chúng, v.v…
Thật
là một tinh thần yêu nước mang bản sắc Việt Nam.
Bình
dị là một nét đẹp Việt Nam.
Bình dị không phải là một phẩm chất đạo đức. Nó là một nét đẹp, nét cao cả của
tâm hồn. Nó như một hương thơm gồm nhiều mùi hương, như một ánh sáng gồm nhiều
màu sắc, hương thơm và ánh sáng ấy toả rộng trong không gian với muôn màu muôn
vẻ. Bình dị không phải chỉ là giản dị. Bình dị hàm chứa cả sự giản dị, sự khiêm
tốn, sự đúng mực, vừa phải, sự hồn nhiên, sự nhân hậu, sự khoan dung, độ lượng
; nó ngược lại với các tính khoa trương, cường điệu, giả tạo, khe khắt, gay
gắt, ngược ngạo, hoặc tủn mủn, vụn vặt. Bình dị là lòng yêu thiên nhiên, gần
thiên nhiên, gắn với thiên nhiên, hoà với thiên nhiên, là bộc lộ bản chất người
một cách chân chất hồn nhiên. Bình dị biểu hiện chủ yếu trong lối sống và trong
thị hiếu thẩm mỹ.
Bình
dị là từ trong tâm hồn, từ ở tấm lòng. Con người có tấm lòng bình dị tự nhiên
có những hành vi toả ra một tình cảm ấm áp đầy sức thuyết phục và cảm hoá người
khác. Để thấy rõ nét bình dị trong tính cách và tâm hồn Việt Nam,
không gì hơn khi ta nhìn vào Bác Hồ. Không phải ngẫu nhiên mà thế giới gắn hai
chữ Việt Nam
và Hồ Chí Minh liền nhau. Về mặt bản sắc mà nói thì Việt Nam đồng
nghĩa với Hồ Chí Minh và ngược lại, cái bản sắc Hồ Chí Minh chính là cái Việt Nam.
Ngay từ lần đầu tiên, Bác tiếp xúc công khai
với đông đảo, câu nổi tiếng của Bác : “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không ?” có
sức mạnh cảm hoá phi thường, câu nói ấy xuất phát từ tấm lòng bình dị tràn đầy
yêu thương sâu sắc, nó hồn nhiên, nó trong sáng, nó không khác được. Nó không
màu mè, không gượng ép ; nó làm Bác hoà vào nhân dân, nhân dân hoà vào Bác. Sau
này trong bất cứ cuộc tiếp xúc nào, những cử chỉ của Bác đối với các “cụ già”,
các “cô phụ nữ”, các “cháu nhi đồng” đều ấm áp, tự nhiên, thân tình như vậy. Không thể có ai “làm giả” ra được
những điều như vậy. Bình dị đi liền với trung thực.
Bác
sống một cuộc sống hết sức đơn sơ, giản dị, từ nhà ở, áo mặc, đồ dùng đến cơm ăn,
nước uống. Không phải Bác cố làm ra cho nó giản dị, không phải Bác cố làm gương
cho cán bộ đồng bào noi theo, mà Bác yêu thích như vậy. Tấm lòng Bác như vậy,
Bác sống tự nhiên như tấm lòng Bác sai khiến.
Tuy
thế bình dị hoàn toàn không có nghĩa là tuỳ tiện, xuề xoà, là suồng sã. Bình dị
có những nguyên tắc rất nghiêm túc của nó.
Bác mặc quần áo rất đơn sơ, dùng những đồ dùng giản dị,
không cầu kỳ : cái quạt nan, cái mũ lá, đôi dép lốp. Nhưng mỗi khi ta thấy Bác,
ta vẫn thấy một tư thế uy nghi của một vị lãnh đạo, một cha già, một người thày
nghiêm khắc và thân ái hoặc hơn nữa một ông tiên tao nhã, chỉnh tề, ta không
thể nào có ấn tượng đứng trước một cái gì gọi là xuề xoà, tầm thường.
Đó
chính là cái bình dị trong tâm hồn của Người toả sáng ra toàn bộ phong thái của
Người. Cái bình dị trong Bác Hồ được hun đúc lên do lòng yêu nước, yêu người
của Bác sâu sắc và bao la, do cuộc sống của Bác bôn ba năm châu bốn biển, làm
nhiều nghề, tiếp xúc với nhiều hạng người. Bác có một vốn sống cực kỳ phong phú
và vững chắc, vì vậy trong cuộc sống chiến đấu, công tác cũng như cuộc sống cá
nhân hàng ngày, không bao giờ Bác gặp điều gì phải một chút bỡ ngỡ. Cái bình dị
của Bác đạt tới mức dù đứng trước những công việc hệ trọng nhất, dù phải giải
quyết những vấn đề gay cấn nhất cũng vẫn giữ được phong cách ung dung thư thái,
“tố sự ung dung”. Năm 1946, Bác dạy bộ đội một câu, tôi nhớ mãi : “Khi không có
giặc coi như có giặc, khi có giặc coi như không có giặc” và khi Bác đi vắng,
Bác dặn cụ Huỳnh ở nhà : “Dĩ bất biến ứng vạn biến” (lấy cái không đổi mà ứng
phó với cái biến động). Cái bình dị, ung dung thư thái của Bác đạt tới đỉnh
cao, nó có một sức thu phục và cảm hoá hết sức mãnh liệt.
Cái
bình dị bao giờ cũng hồn nhiên, cũng biểu hiện hồn nhiên, có hồn nhiên thì mới
bình dị, vì vậy bình dị hàm chứa sự khoan dung, sự chân thành, trung thực, hàm
chứa tình yêu thương tôn trọng lẫn nhau. Thực ra cũng có những thứ hồn nhiên,
trung thực ồn ào, mạnh mẽ khẩn trương, nhưng phong cách Việt Nam
là bình dị, là ung dung thư thái, êm dịu, sâu lắng. Tất cả trở thành bình dị.
Bình dị là một phong cách Việt Nam.
Chính Bác Hồ là người đã kết tinh nhiều vẻ của cái bình dị Việt Nam
vào trong phong cách của mình, làm nên một cái bình dị Việt Nam
rất tế nhị và văn minh, nêu lên một lý tưởng về phong cách mà mọi người Việt
Nam đều yêu mến, ngưỡng mộ, hướng tới, ghi nhận lại như là một nét đậm đà của
bản sắc Việt Nam trong phong cách sống.
Toàn
bộ cuộc đời vĩ đại và cao đẹp của Bác, toàn bộ cái phong cách bình dị nhưng rất
tế nhị và văn minh của Bác đã báo hiệu sự xuất hiện của một nền văn hoá mới ở
Việt Nam.
Thật không phải là ngẫu nhiên khi ngay từ năm 1923, nhà thơ Liên Xô Ô-xíp Man-đen-xtam,
phóng viên báo “Ngọn lửa nhỏ” đã có nhận xét về Bác như sau :
“Tôi
đã hình dung ra một cách rất cụ thể bọn thực dân đang dùng rượu đầu độc như thế
nào dân tộc Việt Nam đáng
yêu, một dân tộc rất lịch thiệp và độ lượng, rất ghét những gì thái quá. Dáng
dấp của con người đang ngồi trước mặt tôi đây, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, cũng
toả ra một cái gì thật lịch thiệp và tế nhị. Văn minh châu Âu trên đất ấy đã
dùng lưỡi lê và rượu độc để thu giấu tất cả những đức tính tốt đẹp ấy của dân
tộc Việt Nam
xuống cái áo đen của bọn cố đạo. Nhưng từ Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một thứ văn
hoá, không phải văn hoá châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hoá tương lai” (Dẫn
theo Hồ Chí Minh : Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nhà xuất bản Văn
học, Hà Nội, 1981, tr.478).
Bình
dị Việt Nam còn
biểu hiện rõ ở thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu nghệ thuật Việt Nam.
Các cảnh quan, công trình xây dựng của Việt Nam
từ lịch sử nhiều năm lưu lại, đều để cho người đời những ấn tượng một vừa hai
phải, xinh gọn, trang nhã, thân mật gần gũi. Ta không có công trình gì đồ sộ
nguy nga quá cỡ gây những ấn tượng choáng ngợp với con người, cũng không có
những tác phẩm nghệ thuật nào quá tỉ mỉ nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thể
nhìn thấy được. Ta không có những thành cao như núi, nhà chọc trời và hạt gạo
có khắc cả một bài thơ, v.v… Trong thị hiếu ngày nay người ta thường nói đến
trang nhã, thanh lịch, người ta chê trách những gì là loè loẹt, sặc sỡ, diêm
dúa, màu mè. Công trình đồ sộ nhất của ta là hệ thống đê chống lũ lụt của đồng
bằng sông Hồng.
Về
văn học nghệ thuật, ta không có những trường ca hàng chục ngàn câu, những tiểu
thuyết hàng chục ngàn trang và hàng ngàn nhân vật, mà những tác phẩm hay nhất
là những bài thơ xinh gọn độ 50 chữ hoặc vài trăm chữ, những bài phú ngót ngàn
chữ, những tiểu thuyết thơ, văn xuôi độ 200 – 300 trang.
Bàn
về cái bình dị Việt Nam
biểu hiện trong thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu nghệ thuật thì đụng phải nhiều vấn
đề rộng lớn và phức tạp khó khăn. Trong phạm vi ở đây, tôi thấy chỉ mới đủ điều
kiện bàn chút ít về sự ưa thích của người Việt Nam đối
với âm thanh (và giai điệu) và màu sắc (và hình dáng) tức là đụng chút ít đến
âm nhạc và nghệ thuật tạo hình. Và, khi nói về sự ưa thích cũng là nặng về sự ưa
thích cổ truyền còn lưu đến bây giờ, chứ không bao quát hết được mọi sự ưa
thích ở mọi vùng, mọi thời gian khác nhau và nhất là những sự ưa thích ấy lại đang
biến đổi.
Đại
thể người Việt Nam
ta ưa thích những âm thanh và giai điệu êm ả, dịu dàng, dìu dặt, réo rắt, đơn
giản, thích những âm sắc gần thiên nhiên, rút từ chất liệu thiên nhiên, ví dụ
tiếng tơ, tiếng trúc, từ tơ tằm, từ cây trúc, ít thích những hoà âm đồ sộ dồn
dập kích động. Tất nhiên đây là nói đại thể chứ không phải toàn bộ, tất cả.
Những âm thanh gợi nhớ quê hương, gợi nhớ một tình cảm ân tình lưu luyến man
mác là tiếng sáo diều, tiếng sáo trúc, tiếng nhị, tiếng đàn nguyệt, đàn bầu,
tiếng trống, tiếng mõ (đều từ chất liệu gỗ, tre, đá, v.v…). Những làn điệu dân
ca là những làn điệu chậm rãi, nhịp điệu êm ái, khoan thai, nhạc nhiều, lời ít,
láy đi láy lại, mỗi lời như đã được khắc sâu vào người nghe. Tất cả có thể
quyện vào tiếng gió, tiếng sóng, tiếng chim lan toả trong không gian, thấm đượm
nhẹ nhàng vào lòng người. Nghệ sĩ và thính giả nhiều khi là một đối một, hoặc
thính giả chỉ là một nhóm người rất nhỏ trong một không khí gia đình thân
thuộc, không có những cuộc diễn tấu đồ sộ ồn ào, trừ những ngày lễ hội có rước
xách.
Có
thể coi đó là cái bình dị trong âm nhạc, cái nhẹ nhàng hồn hậu của âm nhạc Việt
Nam.
Có một hồi rộ lên, đa số thanh niên nhất là ở các thành phố đổ xô nhau tán thưởng
các loại nhạc nhẹ thế giới và các tác giả Việt Nam
cũng viết nhiều ca khúc, kiểu nhạc nhẹ, các ca sĩ thay đổi cách biểu diễn. Người
ta hướng về những âm thanh mạnh mẽ, dồn dập gay gắt, những nhịp điệu kích động,
lối biểu diễn gào thét khoa trương. Đó là một hiện tượng hướng về một sự biến động
tâm lý mới, một ảnh hưởng của trào lưu công nghiệp thế giới. Nhưng bình tĩnh
xem xét lại, hiện tượng đó không để lại dấu vết sâu xa trong tâm hồn Việt Nam.
Vì người ta vẫn hoan nghênh ưa thích các ca khúc đậm đà âm hưởng của dân ca,
bắt nguồn từ các giai điệu dân ca.
Một
cuộc điều tra của Vụ Nhạc Múa Bộ Văn hoá cho biết, khi hỏi các thanh niên về
những bài hát ưa thích, thì trong 10 bài thanh niên ưa thích, có đến 8 bài là
bắt nguồn từ dân ca như “Dáng đứng Bến Tre”, “Đất đỏ miền Đông”, “Tâm tình người
Nghệ Tĩnh”, v.v… chứ không phải những bài nhịp điệu dồn dập và âm thanh gào
thét. Phân tích tình hình này, các đồng chí ở Vụ Nhạc Múa nhận xét : Rõ ràng là
thanh niên Việt Nam
vẫn mang tâm hồn Việt Nam,
vẫn ưa thích cái gì vốn là của mình, nhưng với điều kiện phải được nâng cao. Người
ta không thể thích dân ca nguyên xi như cũ. Đồng thời số bài hát sáng tác theo
mô típ mô phỏng dân ca hoặc nâng cao dân ca xuất hiện ngày càng nhiều. Các nhạc
sĩ sáng tác đều có ý thức sâu sắc khai thác vốn âm nhạc cổ truyền cả trong âm
nhạc không lời. Như vậy cái bản sắc dân tộc trong âm nhạc vẫn được các nhạc sĩ
trân trọng và được quần chúng (cả thanh niên) ưa thích, thừa nhận và yêu mến. Đó
là một chiều hướng phát triển tốt đẹp. Tất nhiên trong lúc có những biến động
mạnh mẽ về nhiều mặt, không khỏi có những chuệch choạc ở chỗ này chỗ khác, nhưng
trong chiều đi chung của lịch sử vẫn có một chiều đi tốt đẹp ngày càng được khẳng
định, ngày càng được mạnh lên. Bản sắc dân tộc vẫn có một sức mạnh riêng của nó
trong cuộc sống. Cuộc sống có đòi hỏi sự phát triển, nhưng nếu sự phát triển được
thúc đẩy một cách có ý thức và hợp quy luật thì phần bền vững của bản sắc càng
thêm bền vững và bản sắc lại phát triển cao hơn, phong phú hơn. Giữ gìn bản sắc
không phải là bảo thủ trì trệ, là hoài cổ, là từ chối mọi sự tiến lên.
Về mặt ưa thích màu sắc, cũng có nhiều ý kiến thú vị. Đại
thể mà nói, người Việt Nam ưa thích các màu sắc dịu dàng, nhẹ nhàng, sáng sủa,
thanh nhã, hài hoà, ưa thích các màu sắc của thiên nhiên, bắt nguồn từ thiên
nhiên.
Người
Việt Nam
chơi hoa trọng hương hơn trọng sắc, thích những thứ hoa gì màu nhẹ nhưng có hương,
như các thứ lan, như hoa ngâu, hoa nhài, hoa huệ, kể cả hoa bưởi, hoa dạ hợp,
dạ hương.
Nếu hoa có màu thì thích loại màu nhẹ, dịu như phấn
hồng, tím nhạt, vàng nhạt, nếu có màu gắt là những điểm nhỏ li ti của những
cánh hoa nhỏ hoặc là những điểm nhỏ trên nền lớn
màu nhẹ. Không phải ngẫu nhiên mà hầu như tất cả các màu Việt Nam đều lấy tên của thiên nhiên đặt vào và các tên đó phần
lớn ứng vào các màu thuộc gam nhạt, thanh. Những tên đó như sau :
Xanh
thì có da trời, nước biển, cỏ non, lá mạ, hoa lý, nõn chuối, cỏ úa, cứt ngựa.
Đỏ
thì có gấc, son, mặt trời mọc, mào gà.
Đỏ
nhạt thì có da cam, gạch non, da bò, gạch cua, lòng tôm, hoa đào.
Nâu
thì có vỏ già, gụ, nâu non.
Đen
thì có hạt huyền, hạt na, than.
Tím thì có bồ quân, hoa sim, hoa mua, hoa cà, mận chín,
quả mồng tơi.
Trắng
có trứng gà bóc, hoa huệ, vôi, tuyết.
Tôi
không biết, thế giới có nước nào có một ngôn ngữ đặt tên màu thú vị như thế hay
không ? Một màu có thể thật gắt, nhưng cho nó một tên quả, tên lá, tên hoa, tự
nhiên nó lại nhẹ đi rất nhiều, như đỏ như gấc, đỏ như hoa mào gà.
Cái bình dị trong màu sắc chủ yếu là cái dịu dàng, nhẹ
nhàng, thanh nhã.
Còn
về hình dáng các đồ vật, các công trình nói chung người Việt Nam ưa
thích cái gì nhẹ nhàng, thanh mảnh, thanh thoát, thoáng đạt. Gần đây có rất
nhiều công trình kiến trúc hiện đại, tôi thường được nghe những ý kiến nhận xét
là nặng nề cục mịch. Cho dù công trình có nguy nga đồ sộ, người ta cũng thích
nó thanh thoát nhẹ nhàng. Không biết các nhà kiến trúc nghĩ sao về điểm này ?
Như
vậy thị hiếu thẩm mỹ Việt Nam
là một thị hiếu tinh tế, hướng tới cái thanh tao, trang nhã gắn với thiên nhiên,
hoà vào thiên nhiên, hướng tới một cái đẹp bình dị hồn nhiên, nó nhất quán với
cái bình dị hồn nhiên nhân hậu trong phong cách sống, trong phong cách ứng xử
của con người tạo nên một bản sắc bình dị Việt Nam gắn với thiên nhiên và hoà
vào thiên nhiên, một mặt nói lên trình độ phát triển xã hội : Ta mới ở vào thời
kỳ tiền công nghiệp. Nhưng đó cũng lại là một bản sắc quý giá. Cái xã hội công
nghiệp trong khi thực hiện công nghiệp hoá đã phá hoại thiên nhiên nhiều, phá
vỡ sự cân bằng môi trường, ngày nay chính những người trong xã hội công nghiệp
phát triển lại thèm khát thiên nhiên, muốn trở lại với thiên nhiên, họ tạo lại
thiên nhiên cho họ. Nhưng thiên nhiên được tạo lại dù có đẹp hơn thì vẫn là
thiên nhiên giả, họ vẫn cần tìm đến thiên nhiên thật. Thế mà Việt Nam
ta vốn có cái bản sắc quý giá là gần thiên nhiên, hoà vào thiên nhiên, là một điều
thật không dễ gì có được. Cũng như đối với màu sắc, có một hồi, ta thấy xuất
hiện những sự ưa thích màu sắc mạnh mẽ và từng mảng lớn : quần áo đỏ, áo có hoa
rất to, màu rất gắt, ta cũng thấy dường như đang có một sự phát triển của thị
hiếu phù hợp với sự phát triển công nghiệp. Nhưng hình như thị hiếu ấy chỉ rộ
lên một thời gian, nhất là mấy năm sau khi thống nhất đất nước, đến bây giờ tuy
hiện tượng đó vẫn còn nhưng không còn rầm rộ, ồ ạt, mà chiều hướng chung hầu như
lại lắng xuống, người ta lại trở về với bản sắc cổ truyền. Cũng có một tình
hình là các lớp người thường rất sôi nổi và hiếu động, ham chuộng sự mới lạ
cuồng nhiệt vào tuổi mới bắt đầu trưởng thành. Khi người ta đã gần đến tuổi đứng
bóng (quãng 30) thì ý thức về nguồn gốc, về cội nguồn mạnh lên, rõ hơn và ý
thức về bản sắc rõ rệt hơn.
Đến
đây, ta lại gặp vấn đề cần bàn tiếp : bình dị đi liền với trung thực, nhân hậu
và hồn nhiên, là một nét đẹp của tâm hồn Việt Nam,
nét đẹp bình dị đó có hoàn toàn phù hợp với
yêu cầu thời đại đang có sự phát triển mới không ?
Thời
đại hiện nay yêu cầu công nghiệp hoá, yêu cầu khoa học kỹ thuật, yêu cầu quốc
tế hoá nhiều mặt ngày càng cao. Do đó con người cần phải khẩn trương, chính
xác, phong phú và phải ứng xử trong nhiều điều kiện phức tạp, đa dạng. Vậy bình
dị có mặt nào tiêu cực, trở ngại cho những yêu cầu phát triển mới ấy hay không
?
Tôi được nghe một nghệ sĩ sáng tác nói thế này : “Đứng
trước phong cảnh nông thôn Việt Nam, tôi dễ dàng xúc động với cảnh con đò, bến nước, gốc đa.
Còn chưa xúc động được như vậy trước những máy kéo và trạm bơm …”.
Tôi cứ suy nghĩ mãi : “Đó là điều đáng trách hay không đáng
trách ?”.
Cần
phải nói thêm : bình dị hoàn toàn không có nghĩa là đơn giản, tuỳ tiện. Đơn
giản và tuỳ tiện quả thực là những điều ngày nay ta không thể chấp nhận được.
Nhưng có thứ khẩn trương ầm ỹ và khoa trương, và có thứ khẩn trương, chính xác
nhưng vẫn ung dung tự tại. Riêng tôi, thực sự tôi thấy không ưa những người luôn
luôn nói lên và làm ra bộ tất bật vội vàng, luôn lớn tiếng thông báo “lịch công
tác” rất dày dặc của mình, luôn luôn cho mọi người biết vừa gặp những người có
tăm tiếng lớn và sắp “phải” gặp những người có chức vụ quan trọng. Và ngược lại,
tôi thấy yêu mến cảm phục những người đang
phải làm rất nhiều việc nặng nề, nhưng luôn thư thái ung dung, lặng lẽ, không
quay cuồng, không cuống quýt, không vội vã hay có vội vã cũng vội vã một cách
ung dung, khẩn trương một cách thư thái.
Từ đó, tôi cho rằng một mặt ta cần cảnh giác với một
khía cạnh là bình dị có họ hàng với lề mề, chậm chạp, tuỳ tiện, đơn giản. Mặt
khác ta hoàn toàn có thể thực hiện những yêu cầu mới trong phong cách, lối sống
và cảm xúc hàng ngày là khẩn trương, chính xác và tinh vi mà vẫn có thể cho nó
một vẻ đẹp sâu sắc : bình dị nghĩa là ung dung, hồn nhiên, trung thực và nhân
hậu.
Như
vậy, ta vẫn có thể xây dựng một văn hoá công nghiệp, hiện đại, trong đó vẫn có
vẻ đẹp bình dị, với điều kiện ta quan niệm nét đẹp bình dị với tất cả chiều sâu
của nó.
Bản
sắc dân tộc Việt Nam còn
một điều quan trọng nữa là tình nghĩa. Tình là tình thương, tình yêu, tình cảm,
nhưng lại còn tình nghĩa. Nghĩa ở đây không có liên quan gì đến “nghĩa” của Nho
giáo mang nặng tính chất đẳng cấp và tôn ty trật tự phong kiến. Nghĩa này không
phải là nghĩa lý, nghĩa khí, nghĩa vụ, nghĩa (chính) và tà, mà nghĩa này là nghĩa
tình. Trong ngôn ngữ Việt Nam có
chữ nhân tình, nhân nghĩa (bị nói trại đi là nhân ngãi với ý chê bai là lăng nhăng),
nhân tình là người yêu, nhân ngãi cũng là người yêu. Vậy thì nghĩa (ngãi) cũng
là yêu. Nghĩa lại còn là duyên.
Trong
ca dao còn có nhiều câu nói lên cái ý vị ấy.
“Tới
đây trước lạ sau quen.
Bóng
trăng là nghĩa, ngọn đèn là duyên.
Thuyền
chài, thuyền lái, thuyền câu.
Biết
thuyền ân ngãi nơi đâu mà tìm”.
“Thuyền
đi để bến đợi chờ.
Tình
đi nghĩa ở bao giờ quên nhau.
Chẳng
nên tình trước nghĩa sau.
Bến
này giãi bóng trăng thâu đợi thuyền”.
“Trầu
xanh, cau trắng, chay hồng.
Vôi
pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên”.
V.v…
và v.v…
Như
vậy tình nghĩa đều là tình cảm, là thứ tình cảm đặc biệt sâu sắc có ràng buộc,
có thuỷ chung, ràng buộc đây không phải ràng buộc bằng nghĩa lý, nghĩa vụ mà bằng
nghĩa tình.
Đồng
chí Lê Duẩn nói “Tình thương và lẽ phải” có thể được coi như một cách diễn đạt
mới của tình nghĩa. Lẽ phải đây cũng có ý nghĩa “tình”, lẽ phải đây là lẽ thuyết
phục, lẽ cảm hoá, không phải là lẽ phải cãi lý, ai đuối lý phải chịu (có người
có lý mà không có lẽ phải, chứ không phải cứ có lý là có lẽ phải đâu). Tôi hiểu
chữ “tình thương và lẽ phải” tức là tình nghĩa theo nghĩa truyền thống được hiểu
trong nhân dân. Người ta thường nói tình nghĩa vợ chồng, tình nghĩa cha con, tình
nghĩa anh em, tình nghĩa bạn bè, tình nghĩa thày trò, tình nghĩa đồng chí, tình
nghĩa họ hàng, tình nghĩa hàng xóm. Tình là tình cảm yêu thương, nghĩa là tình
cảm của một mối quan hệ có ràng buộc. Vì vậy khi gặp người hoạn nạn khó khăn ta
có thể có tình thương (thương xót, thương hại) cứu giúp chứ không ai nói tình
nghĩa người đi đường, tình nghĩa với người bị nạn. Có chăng lúc ấy, lại là thứ
tình nghĩa rộng lớn : tình nghĩa đồng bào. Nghĩa này là nghĩa trộn vào với tình.
Còn như nếu tách ra tình nghĩa là tình cảm cộng với nghĩa vụ và như trong câu
người ta thường nói hết tình còn cái nghĩa, thì cái nghĩa (nghĩa vụ) đó thường
mong manh và dễ mất. Tình nghĩa còn thì còn cả, mất thì mất cả.
Cũng
cần bàn thêm các mặt khác nhau của tình nghĩa. Ta có thể e ngại một cách chính đáng
là tình nghĩa, nếu thiếu một nền tảng khoa học, thiếu một lý tưởng mục tiêu cách
mạng, có thể phát huy mặt tiêu cực : nể nang dè dặt, gia đình chủ nghĩa … tạo
ra một trạng thái trì trệ nặng nề trong cuộc sống. Khi tình nghĩa phát triển thành
“chủ nghĩa tình cảm” thì nhiều mối quan hệ nguyên tắc trong sinh hoạt chính trị
- xã hội bị phá vỡ ; không còn nguyên tắc tập trung dân chủ ; trong một tổ chức
bàn bạc công việc không có biểu quyết và thực hiện thiểu số phục tùng đa số, mà
bất cứ việc gì cũng phải chờ đợi sự nhất trí hoàn toàn mà thời hạn của sự chờ đợi
này có khi là vô hạn định, do đó công việc không được quyết định ; cấp trên thương
cấp dưới, cấp dưới nể cấp trên, không có kỷ luật, chỉ có thuyết phục và chờ đợi,
không có trách nhiệm cá nhân cụ thể, không sao tìm ra được con người cụ thể chịu
trách nhiệm về một khuyết điểm cụ thể nào ; cấp trên quyết định, cấp dưới không
nghe, không thực hiện cũng được, công việc cứ gác lại. Cấp trên có những quyết định
sai, hành động sai, cấp dưới biết rõ, nhưng vẫn nghe theo, làm theo và lại còn
thuyết minh nguỵ biện để bao che và cũng coi đó là tình nghĩa, là thương nhau ;
công tác tổ chức, sử dụng cán bộ lấy tình cảm ưa ghét làm tiêu chuẩn. Điều này
khuyến khích phát triển chủ nghĩa cơ hội, một số người lấy việc nghe theo cấp
trên, nịnh cấp trên làm con đường tiến thân ; chủ nghĩa cá nhân phát triển cả ở
cấp trên và cấp dưới : cấp trên thích nịnh nên khuyến khích cấp dưới nịnh bợ. Đó
là một thứ tình nghĩa giả mạo, phá hoại đạo đức xã hội và cản trở nhiều mặt phát
triển xã hội.
Tình
nghĩa và nghiêm minh là thống nhất. Về điều này, không thể không nhắc đến tấm gương
sáng tuyệt vời của Bác Hồ. Bác là một biểu tượng của tình thương. Bác ăn không
ngon, ngủ không yên khi còn nửa nước bị chiếm đóng, đồng bào miền Nam bị
khủng bố tàn sát. Bác ngủ không trọn giấc khi nghĩ đến dân công bộ đội ở chiến
dịch không đủ áo ấm, không đủ gạo ăn. Bác cởi áo của Bác để cho một tù binh Pháp
thiếu áo. Bác theo dõi hàng ngày không bỏ qua một thành tích nhỏ của một cháu
thiếu niên hay một vị phụ lão. Không bao giờ quên khen thưởng một mẹo hay của một
chiến sĩ du kích hay một phát minh sáng tạo của thanh niên hay trí thức, không
quên một đơn vị nào có thành tích trong chiến đấu hay sản xuất dù đơn vị đó ở một
góc nào trên đất nước. Bác đã bao lần chùi nước mắt khi gặp các đại biểu miền Nam đau
thương. Tấm lòng của Bác thật bao la, thật thắm thiết. Nhưng vì lợi ích của cách
mạng, của Tổ quốc, Bác không hề tha thứ một tội lỗi nào. Bác đã cho xử bắn những
tên ăn cắp của công, xâm phạm nặng nề đến quyền lợi chiến sĩ trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Bác cho xử bắn những tên vô đạo đức mất hết tình người. Bác bắt
phải nghiêm trị những người vô kỷ luật, làm tổn thương đến vận mệnh độc lập của
nước nhà. Bác tự phê bình và xin lỗi đồng bào khi Đảng mắc sai lầm và kiên quyết
cùng Đảng xử lý kỷ luật những cán bộ, đảng viên sai lầm.
Bác
rất nghiêm với những người có sai lầm khuyết điểm. Nhưng những người được Bác
phê bình tuy rất sợ Bác nhưng lại luôn như nhận được ở Bác, từ những lời phê bình
đó một tình thương sâu sắc, một sự khoan dung gần như âu yếm nữa.
Ở
Bác, tình nghĩa là tình nghĩa phân minh và nghiêm minh. Những việc xử lý kỷ luật
của Bác đều làm cho tình nghĩa cách mạng thêm đậm đà, nồng nàn. Bác đã giữ vững
và phát huy cao độ một giá trị tinh thần độc đáo của Việt Nam và
đã nâng nó lên đến mức phù hợp với yêu cầu của thời đại.
Như
vậy cần phải nhận thức tình nghĩa theo một yêu cầu của thời đại, không thể nhận
thức tình nghĩa theo một kiểu hồ đồ và lạc hậu được. Đặc điểm tình nghĩa trong
bản sắc dân tộc Việt Nam có
một ý nghĩa nhân đạo sâu sắc rất lớn, nó rất phù hợp với tinh thần nhân đạo xã
hội chủ nghĩa, nhưng nó phải được phát triển trên nền tảng tinh thần khoa học và
mục tiêu cách mạng.
Mặc dù cả cuộc đời trọn tình, trọn nghĩa với dân với nước,
với Đảng và cách mạng, Bác Hồ vẫn không vì thế mà coi nhẹ tình nghĩa gia đình,
quê hương làng xóm. Chúng ta ai cũng xúc động khi đọc bức thư của Bác gửi họ Nguyễn Sinh lúc ông Nguyễn Sinh Khiêm – anh trai của Bác,
mất (25-8-1950) :
Gửi
họ Nguyễn Sinh
Nghe
tin anh cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách,
lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.
Than
ôi ! Tôi chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một
người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước.
Ngày
9-11-1950
HỒ-CHÍ-MINH
Bản
sắc dân tộc của ta gồm một tinh thần yêu nước anh dũng, kiên cường, một tâm hồn
bình dị và một mối quan hệ giữa người và người trên nền tảng tình nghĩa, là một
bản sắc anh hùng cao cả và nhân đạo. Có thể toàn bộ chi tiết vừa nêu chưa phải
là những tiêu chuẩn đạo đức. Ví dụ, một người thích màu sắc sặc sỡ, không hồn
nhiên không phải là một người vô đạo đức. Nhưng xã hội mà ta hướng tới là xã hội
có một nền đạo đức cao và lúc ấy ai có tâm hồn đẹp là người có đạo đức cao chứ
không phải đạo đức chỉ hạn chế trong các tiêu chuẩn thiện, ác cổ truyền. Chính
vì vậy trong bản sắc dân tộc Việt Nam có
những nét tinh thần cao quý và tiên tiến.
Cũng
có câu hỏi đặt ra là : bản sắc dân tộc có điểm nào tiêu cực, lạc hậu không ? Phải
nói rằng trong diện mạo tinh thần xã hội ta ngày nay còn có nhiều hiện tượng
tinh thần lạc hậu, tiêu cực như : bảo thủ, trì trệ, lười biếng, mê tín dị đoan,
tư hữu nặng nề, ăn bám, v.v… Nhưng theo quan niệm của tôi thì khi bàn về bản sắc
là bàn đến cái vốn gốc của ta được kết tinh lại, cái vốn quý giá nâng cao giá
trị dân tộc, chứ không phải liệt kê các hiện tượng tinh thần, tìm cái gì là phổ
biến, rồi coi cái đó là bản chất, là bản sắc của dân tộc. Đời sống tinh thần của
mỗi dân tộc đều có biến đổi và phát triển. Bản sắc cũng có sự biến đổi, nhưng nó
biến đổi theo quy luật của nó, của cái gốc. Một cái cây càng cao to, nhiều cành
lá thì gốc lớn, càng sâu, càng bền chặt. Xã hội ta đang phát triển, nhưng xã hội
ta vẫn là xã hội của dân tộc Việt Nam,
dân tộc ta phát triển, cái gốc của nó càng phải được vun đắp cho lớn, cho sâu,
cho bền để làm cho dân tộc ta phát triển mạnh mẽ, ngày càng tươi đẹp và càng rạng
rỡ diện mạo Việt Nam hơn. Không có vấn đề đào cái gốc này vứt đi và thay vào cái
gốc khác.
Cần phải có ý thức sâu sắc về bản sắc dân tộc, người của
mỗi ngành vừa nhận thức được rõ bản sắc chung của dân tộc vừa phải thấy được
cái biểu hiện của nó trong ngành mình, trong lĩnh vực của mình. Còn ở mỗi lĩnh
vực lại phải có công phu tìm ra quy luật đặc thù của phương pháp sáng tạo trong
ngành, để đẩy mạnh sáng tạo trên cơ sở bản sắc dân tộc thì mới tìm được hướng đi
đúng đắn. Tìm được từng yếu tố dân tộc trong ngôn ngữ, âm thanh, nhịp điệu, đường
nét, màu sắc là quý giá và cần thiết, nhưng cái quan trọng hơn là phải tìm được
quy luật phát triển, quy luật của phương pháp sáng tạo.
Bản sắc dân tộc cũng chính là những nét tâm hồn của dân
tộc, của mỗi người trong dân tộc. Bản sắc Việt Nam chính là tâm hồn Việt Nam. Bản sắc được biểu hiện ở văn hoá nói chung và biểu
hiện rõ nét nhất ở con người.
Trong
việc xây dựng một nền văn hoá xã hội chủ nghĩa có bản sắc dân tộc, thì vấn đề bản
sắc dân tộc là vấn đề cần phải bàn nhiều nhất. Ở đây, xin bắt đầu bàn một phần
và sẽ còn phải có nhiều dịp bàn tiếp. Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa có bản sắc dân
tộc là nền văn hoá có hai bản chất, hay là có bản chất “kép”. Hai mặt bản chất đó
hoà quyện thống nhất với nhau và là phương hướng xây dựng văn hoá của ta hiện
nay.
Chương
III
Về nhiệm vụ công tác văn hoá, văn nghệ
và hiệu quả xã hội của nó
Nói
về nhiệm vụ công tác văn hoá, văn nghệ báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI chỉ dành một câu ngắn gọn, nhưng câu ấy chứa đựng nhiều ý mới,
rất quan trọng đối với sự chỉ đạo các hoạt động trong lĩnh vực này. Báo cáo viết
: “Công tác văn hoá, văn học, nghệ thuật phải được nâng cao chất lượng. Mỗi hoạt
động văn hoá, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng,
tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm
mỹ của nhân dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu lành mạnh của các tầng lớp
xã hội và các lứa tuổi” (Tạp chí Cộng sản tháng 1-1987. Số đặc biệt nói về Đại
hội VI của Đảng, tr.59).
Đoạn
trích dẫn trên đây nêu ra hai ý quan trọng :
-
Công tác văn hoá, văn nghệ phải được nâng cao chất lượng,
- Tiến hành công tác văn hoá, văn nghệ phải tính đến
hiệu quả xã hội.
Chất
lượng của công tác văn hoá, văn nghệ và hiệu quả xã hội của nó là hai vấn đề có
mối liên hệ nhân quả với nhau. Có nâng cao chất lượng thì công tác văn hoá, văn
nghệ mới có hiệu quả xã hội tích cực. Ngược lại, có hiệu quả xã hội tích cực
nghĩa là khi công chúng được bồi dưỡng tốt về tư tưởng, tâm lý, tình cảm, có ý
thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ cao thì họ đòi hỏi được tiếp
cận với các hoạt động văn hoá, văn nghệ hoàn thiện hơn với chất lượng cao hơn.
Hai mặt trên tác động qua lại càng mạnh mẽ sẽ đẩy các hoạt động văn hoá, văn
nghệ lên tầm cao hơn.
Trong
hoạt động thực tiễn của ngành, công tác văn hoá và công tác văn nghệ là hai lĩnh
vực hoạt động xã hội khác nhau, đương nhiên chúng có mối quan hệ qua lại và có
mục đích chung là góp phần giáo dục cộng sản chủ nghĩa đối với nhân dân lao động.
Công tác văn hoá chỉ các hoạt động văn hoá – giáo dục
ngoài nhà trường, mà lâu nay thường gọi là
“công tác văn hoá quần chúng”, còn công tác văn nghệ là chỉ các hoạt động sáng
tác, phổ biến, trình diễn của giới hoạt động văn nghệ chuyên nghiệp. Dưới đây
sẽ lần lượt phân tích từng lĩnh vực một.
1)
Về chất lượng và hiệu quả của công tác văn hoá – giáo dục
Lâu
nay ở nước ta thường dùng thuật ngữ “công tác văn hoá quần chúng” để chỉ một số
dạng hoạt động “văn hoá – giáo dục” như : hoạt động câu lạc bộ, hoạt động văn
nghệ quần chúng, hoạt động vui chơi giải trí, hoạt động xây dựng nếp sống mới.
Chữ “văn hoá quần chúng” rất dễ nhầm với chữ “văn hoá đại chúng” được dùng phổ
biến tại các nước tư bản phương Tây. Ở những nước này, “văn hoá đại chúng” được
xem là thứ văn hoá thấp kém, rẻ mạt dành cho đám đông, đối lập với nó là “văn
hoá thượng lưu”, dành cho tầng lớp trên trong xã hội. Quan niệm này biểu thị tính
chất đối lập của hai văn hoá trong xã hội tư bản. Để tránh hiểu nhầm, văn bản này
sử dụng thuật ngữ công tác “văn hoá – giáo dục”.
Muốn đạt tới chất lượng và hiệu quả của công tác văn hoá
– giáo dục, phải giải quyết đồng bộ hàng loạt vấn đề từ quan niệm, nhận thức đến
phương thức quản lý, hệ thống các biện pháp nghiệp vụ, gắn vào đó là cơ sở vật
chất và trang thiết bị chuyên dùng, cuối cùng là đội ngũ cán bộ được chuyên môn
hoá. Tuy vậy, nhận thức là khâu then chốt có tầm quan trọng mở đầu “đầu xuôi đuôi lọt”, giải quyết tốt khâu nhận thức, sẽ tạo
ra tiền đề để tiếp tục xử lý các vấn đề tiếp theo. Ở đây, sẽ tập trung phân
tích vài khía cạnh lý luận của công tác văn hoá – giáo dục, giúp cán bộ chỉ đạo
và quản lý công tác văn hoá nhận diện được thực chất lĩnh vực công tác này. Các
vấn đề còn lại sẽ có cách xử lý riêng.
Trước
hết, cần có quan niệm rõ ràng về công tác văn hoá – giáo dục. Đã có nhiều cách lý giải khác nhau về nó, một quan
niệm phổ quát cho rằng : “Là bộ phận nằm trong hệ thống giáo dục cộng sản chủ
nghĩa, công tác văn hoá – giáo dục là một tổng thể biện pháp tổ chức và
hướng dẫn quần chúng tham gia vào các hoạt động văn hoá – xã hội, tiến hành chủ
yếu trong thời gian rỗi nhằm bồi dưỡng, nâng cao, góp phần hoàn thiện nhân cách
và đáp ứng các nhu cầu văn hoá của họ”.
Hệ
thống giáo dục cộng sản chủ nghĩa bao gồm :
-
Nền giáo dục nhân dân : giáo dục nhà trẻ, mẫu giáo, phổ thông, học nghề, bổ túc
văn hoá, giáo dục trung học – chuyên nghiệp và đại học,
-
Các cơ quan nghệ thuật : văn học, sân khấu, điện ảnh, mỹ thuật, âm nhạc, múa,
nhiếp ảnh, kiến trúc,
-
Các cơ quan truyền thông đại chúng : báo chí, đài, ti vi, thông tấn xã, nhà xuất
bản, v.v…
-
Các cơ quan văn hoá – giáo dục : Nhà văn hoá, câu lạc bộ, thư viện, bảo tàng,
triển lãm, nhà thông tin, công viên văn hoá, …
Thời
gian rỗi gồm :
-
Rỗi hàng ngày : ngoài 8 giờ vàng ngọc và thời gian dành cho các việc ăn uống, vệ
sinh, sinh hoạt,
-
Rỗi hàng tuần : tối thứ bảy, ngày chủ nhật,
-
Rỗi hàng năm : các ngày lễ, nghỉ hè, nghỉ phép.
Công
tác văn hoá – giáo dục được tiến hành tại các thiết chế văn hoá như : nhà văn
hoá, câu lạc bộ, thư viện, bảo tàng, công viên văn hoá, … trong đó nhà văn hoá
là thiết chế mang tính tổng hợp, có quy mô lớn, nó thường quy tụ tất cả các thiết
chế trên lại, hoạt động tại một địa điểm nhất định. Địa điểm ấy tuỳ theo quy mô
lớn nhỏ mà có tên gọi là Cung văn hoá, nhà văn hoá, trung tâm sinh hoạt văn hoá,
hoặc nhỏ hơn nữa thì gọi là câu lạc bộ (xí nghiệp), tụ điểm văn hoá (phường).
Trong
thực tế, hiện nay nhà văn hoá đang sử dụng nhiều loại phương tiện văn hoá như :
ngôn ngữ nói (diễn giảng), văn tự (báo chí, sách), văn vật (hiện vật triển lãm,
bảo tàng), tác phẩm nghệ thuật, trò chơi, nghi thức (lễ hội) và các thiết bị văn
hoá như : máy chiếu phim, vi-đê-ô cát-xét, ti-vi, đài, các thiết bị âm thanh và
ánh sáng, … Vì vậy, công tác giáo dục tại nhà văn hoá là đại diện đầy đủ cho công
tác văn hoá – giáo dục.
Muốn
thấy rõ đặc điểm cơ bản của công tác văn hoá – giáo dục, thiết tưởng cần so sánh
nó với công tác giáo dục ở trường phổ thông.
Điều
dễ nhận thấy nhất là đối tượng chủ yếu của văn hoá – giáo dục là những người lớn
tuổi, còn ở trường phổ thông là lớp tuổi vị thành niên.
Vị
thành niên là lớp người, mà toàn bộ hoạt động của nó còn đang mang tính chất “tập
dượt” để tiến đến hình thành, khác hẳn thế, người lớn tuổi là những cá thể đã định
hình nhân cách, đã có nghề nghiệp xác định. Trung tâm chú ý của người lớn là
lao động, là tìm cách thay đổi điều kiện lao động để nâng cao hiệu suất, cải
thiện đời sống, nhu cầu thường xuyên của họ là muốn được giải phóng mọi ức chế
tâm – sinh lý, để đạt tới sự sảng khoái trong công việc, là muốn được phát huy đến
cao độ mọi dự trữ tiềm năng văn hoá để tự hoàn thiện nhân cách của mình.
Không
giống như học sinh tới trường là để tiếp nhận một cách có hệ thống những tri thức
cần thiết để chuẩn bị học lấy một nghề nhất định làm vốn vào đời, người lớn tuổi
đến tham gia sinh hoạt tại cơ quan văn hoá – giáo dục là nhằm bồi bổ những thiếu
hụt mà họ đang có nhu cầu. Chẳng hạn, người bác sĩ có giọng hát hay nhưng chưa
kịp bộc lộ, đến với nhà văn hoá là cốt được bồi dưỡng để phát huy tiềm năng đó.
Chị ca sĩ đến nhà văn hoá không phải để luyện giọng mà là để bồi dưỡng các năng
lực khác như : nấu ăn, may mặc, thêu thùa hoặc trau dồi kinh nghiệm về nuôi
con, chữa bệnh, chăn nuôi gia súc, v.v…
Như
vậy mục tiêu của giáo dục phổ thông là hình thành nhân cách, nghề nghiệp, còn mục
tiêu của hoạt động văn hoá – giáo dục là bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm năng văn
hoá, làm cho các tiềm năng ấy hiện thực hoá thành đời sống tinh thần phong phú
của xã hội. Đối với mỗi cá nhân thì đây cũng chính là quy trình làm cho mỗi người
có điều kiện phát triển hài hoà và toàn diện. Giáo dục học gọi đó là sự hoàn
thiện nhân cách.
Giữa
hai hệ thống giáo dục vừa kể trên còn có điểm khác về tính chất nữa. Ở trường
phổ thông học sinh phải chấp hành vô điều kiện mọi quy chế học đường, quan hệ
giữa thày giáo và học sinh là mối quan hệ giữa người truyền đạt và người tiếp
nhận, không có sự đổi chiều giữa hai đối tượng này. Vì thế, trường phổ thông là
một thiết chế giáo dục có thể chế nghiêm khắc. Trái lại, đến với nhà văn hoá là
những người có sở thích,
ở đây nguyên tắc tự nguyện được đặt lên hàng
đầu. Hay thì tham dự, không hay thì họ từ chối, không ai có quyền ép buộc cả. Hơn
nữa, công chúng đến sinh hoạt tại nhà văn hoá phần đông là lớn tuổi, trong số đó
một số người có danh tiếng như : các anh hùng, chiến sĩ thi đua, nhà khoa học,
văn nghệ sĩ, nhà báo, bác sĩ, kỹ sư, v.v… Họ đến nhà văn hoá để tìm cái sở cầu,
tìm bạn “tri âm”, “tri kỷ” hoặc có thể tham gia tổ chức và hướng dẫn hoạt động
văn hoá cho những người khác. Như vậy, người đến thăm quan nhà văn hoá lúc đầu
có thể là khách, sau trở thành chủ thể giáo dục làm việc như cộng tác viên. Điều
này nói lên tính chất mềm dẻo và năng động của cơ chế giáo dục tại nhà văn hoá.
Đối
tượng, mục tiêu, tính chất là những dấu hiệu cơ bản phân biệt hai loại hình giáo
dục kể trên, đồng thời cũng là những đặc điểm chủ yếu để nhận diện công tác văn
hoá – giáo dục.
Những năm gần đây, nhờ cố gắng hoạt động của toàn ngành
văn hoá, mạng lưới cơ quan văn hoá – giáo dục đang từng bước hình thành và đang
khẳng định vai trò xã hội của nó trong công cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá.
Số
liệu tổng kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở 1982-1987 cho biết, tính đến
1985 cả nước đã có :
-
Nhà văn hoá tỉnh, thành phố 28
- Nhà
văn hoá huyện, quận, thị xã 172
-
Nhà văn hoá xã, phường 1000
-
Thư viện tỉnh, thành phố 45
-
Thư viện quận, huyện, thị xã 426
-
Thư viện xã, phường 2000
-
Bảo tàng tỉnh, thành phố 33
-
Nhà truyền thống quận, huyện 26
-
Rạp hát 79
-
Rạp chiếu bóng 339
Trên đây là số thiết chế văn hoá do Bộ Văn
hoá quản lý, chưa kể số thiết chế văn hoá do các ngành quân đội, công đoàn,
giáo dục, thanh niên xây dựng.
Con
số trên đây rất đáng làm chúng ta tự hào, nó đánh dấu bước trưởng thành trong sự
nghiệp xây dựng văn hoá.
Tuy
vậy, quan sát hoạt động của một số nhà văn hoá hiện thời, khiến ta phải suy nghĩ
phân vân. Có không ít nhà văn hoá hiện nay đã lấy “dịch vụ văn hoá” làm hoạt động
chủ chốt, như : tổ chức chiếu phim, mở quán cà phê có nghe nhạc, mở phòng cưới,
tổ chức nhảy múa có bán vé vào cửa, biểu diễn nghệ thuật, chiếu vi-đê-ô cát-xét,
vui chơi có thưởng, quay xổ số kiến thiết và hội chợ triển lãm có bán hàng đặc
sản của địa phương, … Tính chất ồn ào náo nhiệt của những hình thức hoạt động bề
nổi này khiến nhiều đồng chí lãnh đạo địa phương yên tâm về hiệu quả của hoạt động
nhà văn hoá.
Thực
ra, tổ chức dịch vụ văn hoá đáp ứng nhu cầu giải trí của nhân dân là một chức năng
của cơ quan văn hoá – giáo dục, nhưng đây không phải và không thể là chức năng
cơ bản của nó. Nếu nhà văn hoá mà chỉ có chiếu phim và biểu diễn văn nghệ thì nó
trở thành rạp hát, chứ không còn là cơ quan văn hoá – giáo dục.
Muốn
nhận biết hiệu quả xã hội của bất cứ thiết chế văn hoá nào, thì điều quan trọng
là phải trở về với chức năng xã hội cơ bản của nó. Đối với hoạt động của nhà văn
hoá cũng phải làm như vậy.
Nhân
loại đã tồn tại như một giống loài chứ không phải như tổng số của những cá thể
biệt lập. Từng người không thể nào tự hoàn chỉnh về các mặt sinh học, tâm lý, xã
hội. Chính vì vậy, ngay từ khi hình thành, con người đã có nhu cầu giao tiếp để
trao truyền kinh nghiệm và nhu cầu ấy trở thành bản chất tự nhiên của hoạt động
sống.
Điều
cần nhấn mạnh là năng khiếu không phải là cái bẩm sinh ở con người. Chỉ một số
tư chất nào đó về sinh học, sinh lý, thần kinh mới là những yếu tố bẩm sinh, giúp
cho việc tiếp nhận cách thức hoạt động của người khác, nói khái quát là tiếp nhận
vốn văn hoá của thế hệ trước. Sự tiếp nhận gia tài văn hoá do thế hệ trước truyền
lại, đối với cá nhân, gọi là quá trình “học làm người”, đó là mặt quan trọng nhất
để hình thành nên con người văn hoá, là quá trình văn hoá hoá con người trong xã
hội.
Nhà
tâm lý học Liên Xô A.N. Lê-ôn-chi-ép có một ví dụ rất hay. Ông nói : “Giả thử hành
tinh của chúng ta xảy ra một tai biến nào đó dẫn đến kết quả là chỉ còn những
trẻ nhỏ sống sót, toàn bộ số người lớn bị chết hết, thì có lẽ lịch sử của loài
người nhất định sẽ bị đứt đoạn, mặc dù loài người vẫn tồn tại. Các báu vật của
nền văn hoá hãy còn nguyên vẹn, nhưng không có ai truyền thụ lại cho các thế hệ
mới. Máy móc không hoạt động, sách báo không ai đọc, các tác phẩm nghệ thuật mất
hết chức năng thẩm mỹ của nó. Lịch sử loài người có lẽ phải bắt đầu lại hoàn toàn
mới” (Dẫn theo sách : Con người. Những ý kiến mới về một đề tài cũ. T.1 (sách dịch).
NXB Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.297).
Sự
phân tích trên đây nói lên chức năng cơ bản khởi thuỷ của hoạt động văn hoá là
trao truyền kinh nghiệm, tức là chức năng giáo dục để hình thành nên mẫu nhân cách,
phù hợp với yêu cầu của thời đại.
Trong
lĩnh vực hoạt động của cơ quan văn hoá – giáo dục, chức năng ấy được cụ thể hoá
thành giáo dục cộng sản chủ nghĩa đối với nhân dân lao động. Giáo dục cộng sản
chủ nghĩa nói ở đây không phải chỉ là giảng dạy về nguyên lý của chủ nghĩa cộng
sản, mà là sự giáo dục toàn diện bao gồm cả trí, đức, mỹ, thể dục và kỹ thuật tổng
hợp, nhằm tạo nên những con người có đủ phẩm chất và năng lực tham gia xây dựng
chủ nghĩa cộng sản.
Chức
năng giáo dục cuả nhà văn hoá lại được phân thành các nhiệm vụ cụ thể như sau :
a)
Trí dục : Tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê-nin, xây dựng thế giới quan và nhân
sinh quan cộng sản ; tuyên truyền, phổ biến các vấn đề thời sự, chính trị, làm
cho quần chúng thông hiểu mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phổ
biến những thành tựu về khoa học, kỹ thuật và hướng dẫn áp dụng vào đời sống thực
tiễn, đấu tranh đập tan mọi luận điệu tuyên truyền của đế quốc và tay sai.
b)
Đạo đức : Giáo dục lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa kết hợp với tinh thần quốc tế
vô sản trong sáng ; giáo dục thái độ cộng sản đối với lao động, rèn luyện ý thức
bảo vệ của công, trau dồi các đức tính : trung thực, thật thà, khiêm tốn, chăm chỉ, tiết kiệm, … xây dựng
các chuẩn mực của nếp sống mới, của gia đình văn hoá, của con người mới, xây
dựng hệ ứng xử mới, hệ nghi thức biểu hiện ở các việc tang, cưới, giỗ, lễ tết,
hội ; nêu gương người tốt, việc tốt, đồng thời phê phán các hiện tượng tiêu cực
trong mọi ứng xử xã hội.
c) Mỹ dục : Giáo dục quan điểm thẩm mỹ Mác – Lê-nin, xây
dựng thị hiếu lành mạnh, trong sáng tác cũng như thưởng thức văn nghệ ; hình thành
quan điểm thẩm mỹ tiến bộ trong sinh hoạt : ăn, mặc, ở, thẩm mỹ trong giao
tiếp, trong lao động và trong quan hệ với thiên nhiên ; thu hút quần chúng tham
gia hoạt động văn nghệ không chuyên, phổ biến kiến thức phổ thông về nghệ thuật, tạo điều kiện để họ tiếp cận với các giá trị
nghệ thuật của thế giới ; phê phán các quan điểm suy đồi
trong hoạt động nghệ thuật.
d) Thể dục : giáo dục những kiến thức phổ thông về vệ
sinh phòng bệnh, tổ chức bảo vệ sức khoẻ và rèn luyện thân thể, tổ chức vui chơi,
giải trí.
Tóm lại, giáo dục là chức năng bao trùm, là thuộc tính
bản chất thấm nhuần trong từng hoạt động diễn ra tại nhà văn hoá. Ngoài ra, nhà
văn hoá còn có các chức năng tổ chức sự giao tiếp, chức năng phát huy khả năng
sáng tạo của quần chúng và chức năng đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi giải trí cho họ.
Giao
tiếp là chức năng đặc thù của hoạt động nhà văn hoá. Có nhiều hình thức giao tiếp
như : các dạng sinh hoạt chuyên đề, diễn giảng, tạp chí miệng, sinh hoạt văn
nghệ, lễ hội, … nhưng hình thức giao tiếp độc đáo nhất là giao tiếp của tập thể
người hoạt động theo sở thích, tức là hoạt động của các nhóm câu lạc bộ.
Phát
huy khả năng sáng tạo của quần chúng là chức năng quan trọng của hoạt động nhà
văn hoá. Trước hết cần phân biệt giữa hoạt động của giới văn nghệ chuyên nghiệp
và hoạt dộng văn nghệ của quần chúng. Sáng tác và biểu diễn là hoạt động nghề
nghiệp của văn nghệ sĩ chuyên nghiệp, còn quần chúng nhân dân tham gia văn nghệ
không phải để kiếm sống, mà là để tự biểu hiện mình, khẳng định mình, qua đó mà
đạt tới sự trưởng thành về tư tưởng, đạo đức và về khoái cảm thẩm mỹ, tức là đạt
tới sự hoàn thiện nhân cách. Do quần chúng tham gia văn nghệ để tự bộc lộ xúc cảm
của mình, nên tác phẩm của họ thường giữ được vẻ hồn nhiên, tươi mát, dù kỹ thuật
biểu hiện chưa được trau chuốt. Ngược với tình hình trên, nhiều đơn vị văn nghệ
quần chúng chạy theo xu hướng bắt chước văn công chuyên nghiệp, kết quả chỉ tạo
ra được những tiết mục sơ lược, khô khan, sớm muộn sẽ đi vào lối mòn của sự phô
diễn kỹ thuật. Đây là nhược điểm cần uốn nắn.
Một
trong những đặc điểm của xã hội công nghiệp là lao động được chuyên môn hoá sâu
sắc, thời gian được phân chia rành mạch : giờ nào việc ấy, mỗi người phải làm
việc khẩn trương trong một hệ thống thao tác nhất định. Lao động với tiết tấu vừa
dồn dập vừa lặp lại, như thế sẽ tạo nên sự mệt mỏi tinh thần. Nhà văn hoá có chức
năng tổ chức nghỉ ngơi giải trí để giải toả căng thẳng, hồi phục tâm lực, trí lực
và thể lực cho người lao động.
Trong
các hình thức giải trí ở nhà văn hoá, các trò chơi, trò diễn, các sinh hoạt nhảy
múa, ca hát, ngày hội, các buổi họp mặt thân mật của nhóm bạn, nhóm nghề, của
những người cùng sở thích, của người thân trong gia đình, … có tác dụng giáo dục
và giải trí rất lớn. Đây cũng là nét đặc sắc riêng của hoạt động nhà văn hoá.
Để đảm bảo cho các chức năng vận hành được tốt, công tác
văn hoá – giáo dục còn đề ra những nguyên tắc như : nguyên tắc tính tư tưởng và
tính Đảng cộng sản, nguyên tắc tính khoa học, nguyên tắc phát huy tính chủ động
sáng tạo của công chúng, nguyên tắc xử lý có phân biệt đối với từng loại đối tượng.
Ngoài ra có thể kể thêm nguyên tắc liên hệ chặt chẽ với đời sống thực tiễn,
nguyên tắc thẩm mỹ thấm nhuần trong mọi hoạt động văn hoá.
Mỗi tác phẩm văn hoá thường chuyên chở một nội dung tư tưởng
hay một giá trị văn hoá nào đó. Nguyên tắc tính tư tưởng và tính Đảng nói lên
yêu cầu xử lý mỗi tác phẩm văn hoá phải xuất phát từ lợi ích của giáo dục cộng
sản chủ nghĩa của Đảng. Còn lại là các nguyên tắc sư phạm, có thể tìm thấy
trong các giáo trình về công tác tuyên truyền giáo dục của Đảng cộng sản.
Như
vậy, muốn nâng cao chất lượng công tác văn hoá để đạt tới hiệu quả xã hội tích
cực thì trước hết phải nắm vững hệ thống các chức năng, trong đó giáo dục là chức
năng cơ bản, phải vận dụng thành thạo các nguyên tắc giáo dục như những chỉ tiêu
kiểm tra chất lượng đối với các hoạt động văn hoá, đồng thời lại phải hoàn thiện
bộ máy quản lý với đội ngũ cán bộ đủ trình độ chuyên môn, phải xây dựng cơ sở vật
chất đúng với tiêu chuẩn chuyên dùng và phải đưa hoạt động nghiệp vụ vào đúng
quỹ đạo kỹ thuật của công tác văn hoá – giáo dục.
Trên
đây đã phân tích chức năng cơ bản của công tác văn hoá – giáo dục nhằm nâng cao
nhận thức đối với lĩnh vực công tác này, các vấn đề còn lại có thể tìm thấy lời
giải đáp trong các cuốn sách về nghiệp vụ (có thể tìm đọc cuốn : Nhà văn hoá. Mấy
vấn đề lý luận về xây dựng và hoạt động. Trần Độ chủ biên, Nhà xuất bản Văn hoá
– Hà Nội, 1986).
2)
Chất lượng của nghệ thuật và hiệu quả xã hội của nó
Công tác văn hoá nói chung, hoạt động nghệ thuật nói
riêng phải được nâng cao chất lượng. Đây là một đòi hỏi chính đáng, vì nghệ
thuật có chất lượng thì sự tác động của nó mới có khả năng tạo ra hiệu quả tốt đối
với xã hội.
Trong
quan niệm thông thường của xã hội, khi nói chất lượng nghệ thuật, người ta nghĩ
ngay tới chất lượng của tác phẩm nghệ thuật và khi nói về tác phẩm nghệ thuật
thì lại chỉ chú ý tới chủ đề tư tưởng hoặc nội dung chính trị của tác phẩm.
Quan niệm này không hoàn toàn sai, nhưng nó chưa được toàn diện và đầy đủ.
Thực
ra hoạt động nghệ thuật là một quá trình, bắt đầu từ sự sáng tạo ra tác phẩm của
nghệ sĩ, tác phẩm được nhân bản lên bằng cách phổ biến rộng rãi trong công chúng
thông qua các phương tiện truyền hình, triển lãm tranh hay trình diễn trước công
chúng, … Đó là qua kênh truyền đạt mà tác phẩm đến với công chúng. Công chúng
tiếp nhận, cảm thụ tác phẩm sẽ có phản ánh trở lại, nhờ đó mà nghệ sĩ điều chỉnh
tác phẩm của mình cho phù hợp với thị hiếu và nhu cầu của công chúng. Tác phẩm
của nghệ sĩ, kênh truyền đạt và công chúng là ba khâu liên kết chặt chẽ với
nhau trong một chu trình khép kín. Chu
trình ấy được gọi là hoạt động nghệ thuật. Đánh giá chất lượng của hoạt động
nghệ thuật là phải đồng thời xem xét cả ba khâu này, bỏ sót một khâu nào đều là
không đầy đủ.
Trước hết hãy xem tác phẩm của nghệ sĩ, vì đây là khâu
quan trọng nhất.
Tác
phẩm nghệ thuật là một chỉnh thể thống nhất giữa nội dung tư tưởng và hình thức
diễn đạt mà ta thường quen gọi là hình thức nghệ thuật.
Trong
sự tiếp cận với nghệ thuật, một thói quen phổ biến nhất xưa nay là “đọc sách”,
mà đọc sách thường là chỉ tập trung theo dõi cốt truyện. Thói quen ấy được áp dụng
vào việc cảm thụ tác phẩm thuộc loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, hội hoạ,
múa, …thành thử nghe nhạc, xem tranh cũng như đọc sách, chỉ chăm chú đọc cốt
truyện để lý giải nội dung tư tưởng của tác phẩm, mà có phần xem nhẹ việc cảm
thụ nghệ thuật tức là chưa thưởng thức bản thân sức biểu hiện của ngôn ngữ nghệ
thuật. Đối với một số không ít cán bộ văn hoá thì nội dung tư tưởng của tác phẩm
còn bị quy vào tư tưởng chính trị, cho nên khi thấy một tác phẩm nghệ thuật nào
đó không có vấn đề chính trị là có thể cho qua, dù nghệ thuật có trung bình, thậm
chí yếu kém và thô sơ cũng được.
Trong
những tác phẩm loại này, tác giả của chúng có thể có động cơ tư tưởng tốt, nhưng
tư tưởng ấy một khi đưa vào tác phẩm thì nó bị nghệ thuật chi phối, tư tưởng tốt
mà nghệ thuật xoàng thì vẫn không làm nên tác phẩm hay được. Nói nghệ thuật là
nói đến cái mới, tính độc đáo của ngôn ngữ quán xuyến trong việc xây dựng hình
tượng nghệ thuật. Ngôn ngữ diễn đạt thô thiển, tạo ra hình tượng nghệ thuật mờ
nhạt thì bản thân nó không đủ sức chuyên chở tư tưởng tốt đến với công chúng.
Tiếp xúc với tác phẩm, mà nội dung giáo huấn của nó quá lộ liễu thì người xem dễ
có cảm giác khó chịu, dường như bị xúc phạm vào tính tự trọng của họ. Trong cuộc
sống xã hội, giáo dục có vị trí vô cùng quan trọng, nó góp phần hình thành nên
nhân cách con người. Nhưng giáo dục đối với người lớn tuổi và thanh niên có trình
độ học vấn có một đặc điểm rất đáng lưu ý là : Người lớn tuổi là người đã đạt tới
sự phát triển thuần thục về tâm lý, sinh lý. Họ đã tích luỹ được vốn sống phong
phú, đã tương đối ổn định trong việc lựa chọn các mục tiêu, quan điểm, lý tưởng,
xu hướng và nguyện vọng về cuộc sống, đã có một nghề xác định. Tóm lại, họ là
những cá thể đã định hình về nhân cách. Vì vậy, tiếp xúc với nghệ thuật, người
lớn tuổi muốn lắng nghe nghệ sĩ gợi ý, mách bảo để họ lựa chọn phương thức tự
hoàn thiện lấy nhân cách của mình. Nói khác đi, họ có nhu cầu tự giáo dục. Tóm
lại, tác phẩm nghệ thuật mà ý đồ giáo huấn bộc lộ thô thiển là không phù hợp với
tâm lý của lớp công chúng lớn tuổi và thanh niên có trình độ học vấn. Hơn nữa,
nội dung tư tưởng của tác phẩm có hàm súc, ngầm ẩn nhiều tầng ý nghĩa, khiến người
cảm thụ phải tìm mới hiểu ; từ chỗ hiểu nông cạn đến hiểu sâu sắc, quá trình tìm
và hiểu chính là quá trình tái sáng tạo, làm nên khoái cảm thẩm mỹ ở người cảm
thụ. Và nhờ khoái cảm thẩm mỹ mà có biến đổi nhân cách. Đây chính là tác động
giáo dục của tác phẩm nghệ thuật chân chính.
Nói về tác phẩm nghệ thuật chân chính, chủ tịch Phạm Văn Đồng
đã viết : “Hai mặt chủ yếu của văn học và nghệ thuật là nội dung tư tưởng và
hình thức nghệ thuật. Đã nói đến văn học, nghệ thuật thì phải thấy nội dung tư
tưởng rất quan trọng, nhưng đồng thời giá trị nghệ thuật cũng rất quan trọng.
Ta đòi hỏi hai mặt đó đều phải tốt một trăm phần trăm. Nội dung tư tưởng quan
trọng vì nó là linh hồn và tất nhiên đối với chúng ta đó là yêu cầu rất cao,
cao chừng nào tốt chừng ấy. Nhưng mà đừng một chút nào vì đòi hỏi về nội dung tư
tưởng cao như vậy mà tự cho phép mình, hay cho phép bất cứ người nào xem nhẹ
mặt nghệ thuật, giá trị nghệ thuật, trình độ nghệ thuật, làm cho nó kém đi, hạ
thấp nó. Làm như vậy thì còn gì là nghệ thuật ? Nghệ thuật thì phải thực sự là
nghệ thuật” (Phạm Văn Đồng : Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người
nghệ sĩ, NXB Văn học, Hà Nội, 1969, tr.134).
Tóm
lại, tư tưởng cao mà hình thức nghệ thuật thô kệch thì kết quả là âm tính. Chất
lượng nghệ thuật trước hết thể hiện ở khâu sáng tạo ra tác phẩm. Chúng ta đang
phấn đấu để nâng cao chất lượng sáng tạo, hướng tới các nhiệm vụ đã được xác định,
đáp ứng đòi hỏi trước mắt của công chúng hiện thời, đồng thời vươn lên xây dựng
tác phẩm lớn tác động sâu xa đến cuộc sống và con người.
Nhắc
nhở nhiệm vụ sáng tạo của văn nghệ sĩ, bài nói của đồng chí Phạm Văn Đồng tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc ngày 25/2/1987 có đoạn viết : “Phải sáng tạo được những
điển hình tiêu cực có chiều sâu hơn, có sức phê phán và tố cáo mạnh mẽ hơn, chẳng
những chỉ để công chúng được cười hả hê mà khiến cho mọi người căm tức, từ đó mà
có tác dụng xây dựng rõ rệt. Cao hơn thế và khó hơn thế phải sáng tạo được những
điển hình tích cực chân thực và có sức hấp dẫn mãnh liệt, chiếm được lòng yêu mến
say mê của công chúng, thổi bùng niềm khát khao sống đẹp đẽ, những nhân vật từ
tác phẩm đi vào cuộc đời, thành người bạn gần gũi, thành tấm gương động viên đối
với mỗi người lao động, nhất là đối với thanh niên”.
Tác
phẩm nghệ thuật giống như chiếc bình tích điện (accumulateur), ở đây là vật tích
giá trị văn hoá nhân loại. Muốn làm cho bình phát sáng thì phải nối nó với hệ
thống bóng điện, nói khác đi là phải làm cho tác phẩm đến với công chúng thì giá
trị của nó mới được phát huy tác dụng, tức là đạt tới hiệu quả xã hội. Đây chính
là khâu cảm thụ nghệ thuật của công chúng. Cảm thụ nghệ thuật không phải là một
hành động cô lập, tách rời khỏi nhân cách xã hội cùng với vốn kinh nghiệm sống,
gọi tắt là vốn văn hoá của người cảm thụ tác phẩm. Cảm thụ nghệ thuật sẽ gây ra
sự biến đổi trong ý thức của người cảm thụ, trong mối quan hệ của anh ta đối với
hiện thực khách quan, trong những hành động diễn tiến tiếp theo của anh ta, nói
khác đi là tác phẩm nghệ thuật có khả năng chiếm lĩnh tình cảm ý thức của người
cảm thụ, hướng dẫn họ lựa chọn phương thức ứng xử hợp với tiến bộ xã hội.
Trong
thực tế chúng ta nhận thấy có người xem vở diễn nước mắt chảy ròng ròng, cũng vở
ấy có người xem lại cười hề hề, … Rõ ràng cảm thụ nghệ thuật gắn liền với điều
kiện tâm lý - lịch sử của người cảm thụ. Có người xem nghệ thuật chỉ thiên về
phê phán, phê phán để tỏ ra có hiểu biết ít nhất là ngang với tác giả. Ngược lại
trẻ em tiếp cận với nghệ thuật chỉ tiếp thu mà không phê phán. Lại có người xem
nghệ thuật xong thấy đầu óc phân vân, không biết hoặc không dám nói gì, vì nói
ra sợ bị cười là nói sai, nói trật. Thái độ đúng đắn nhất đối với tác phẩm nghệ
thuật là vừa cảm thụ vừa phê phán, làm cho sự cảm thụ được sâu sắc hơn, nhờ đó
mà cảm nhận được chất lượng nghệ thuật.
Muốn thưởng thức nghệ thuật cũng phải học và tập công
phu. Học là để nắm vững đặc trưng ngôn ngữ và kết cấu tác phẩm của từng thể
loại nghệ thuật, tập là thường xuyên tiếp xúc với tác phẩm như nghe nhiều, xem
nhiều và đọc nhiều, đọc tác phẩm và đọc cả những bài phê bình tác phẩm, nhờ đó
mà nâng trình độ cảm thụ của người đọc lên ngang tầm người viết. Đối với các
tác phẩm nghệ thuật thuộc loại nghe nhìn cũng phải kiên trì học và tập như thế.
Về một phương diện nào đó, có thể xem nghệ thuật giống
như một ngôn ngữ. Ở đó có những nguyên tắc tu từ và đặt câu (cú pháp) riêng cho
từng loại nghệ thuật. Muốn “đọc” tác phẩm nghệ thuật thì phải nắm vững các
nguyên tắc về tu từ và cú pháp của nó. Cho nên học và tập thưởng thức nghệ
thuật gần giống như học ngoại ngữ. Tiếp nhận một từ mới cũng khó như làm quen
với người bạn mới, nhưng trước lạ sau quen. Cứ kiên trì tiếp xúc đến một lúc
nào đó sẽ làm chủ được sự đánh giá đối với tác phẩm nghệ thuật.
Ngày
nay xã hội đang đạt tới sự phân công lao động chuyên môn hoá ngày càng tinh vi
và sâu sắc. Kết quả của phân công lao động ấy đã phân hoá công chúng nghệ thuật
thành những đối tượng khác nhau theo dấu hiệu nghề nghiệp và lớp tuổi. Giới trí
thức ở thành phố có thể vẫn say sưa nghe nhạc giao hưởng, còn những người lao động
thường mê các giai điệu du dương, có khả năng làm thư dãn thần kinh, giải toả
những căng thẳng về tâm – sinh lý.
Xưa
kia ba bốn thế hệ có thể sống chung trong một ngôi nhà, cùng thoải mái đi xem hát
chèo vào những đêm hội làng rộn rã. Ngày nay, ông và cháu cùng ngồi xem ti-vi là
có thể phát sinh mâu thuẫn. Ông muốn nghe tiếp chất véo von của khúc dân ca chèo
thì cháu lại muốn tắt ngay để chuyển sang kênh nhạc nhẹ. Hoặc như khi cùng ngồi
xem một đoạn phim chiến đấu, ông bồi hồi nhớ lại không khí hào hùng của cái ngày
vác cái mã tấu lên lấy huyện, hoặc nghĩ về những bước chân rầm rập hành quân
ngang dọc đất nước đuổi kẻ thù chung, còn cháu sẵn sàng nhại lại hành động của
những người trong phim, cầm bất cứ vật gì có thể giả làm súng bắn rẹt rẹt vào mọi
người. Nếu ông doạ cháu, nó lập tức quay súng nổ vào ông rồi cười. Nguy hiểm là
vậy ! Cùng một tiết mục nghệ thuật, đối với ông là sự hồi suy của ký ức về một
thời hào hùng của dân tộc, còn đối với cháu lại có thể là sự đầu độc óc trẻ thơ
của nó.
Xem
tác phẩm khoả thân cũng thế, có người thấy đây là kiệt tác của hoá công, càng
ngắm càng say, nhờ đó đạt tới sự thanh thản và cao khiết của tâm hồn, số người
khác thì lại chỉ khai thác khía cạnh thấp hèn của sự cảm thụ nghệ thuật. Nghệ
thuật, như người ta thường nói, là thức ăn tinh thần của con người. Thức ăn ấy
chỉ trở nên “ngon miệng” khi hợp với khẩu vị của từng loại đối tượng, với trình
độ thưởng thức của từng lớp tuổi.
Chất lượng nghệ thuật còn phụ thuộc vào chất lượng của
kênh truyền đạt, tức là những phương tiện chuyên chở giá trị của tác phẩm đến
với công chúng. Sách viết hay mà in giấy đen, chữ quá nhỏ lại sai sót thì người
đọc sẽ giảm đi nhiều hứng thú. Thưởng thức nhạc mà phòng nghe ồn ào, máy móc
lạo xạo gây ra nhiều tạp âm thì dù bản nhạc hay đến đâu cũng không có ý nghĩa.
Trong
thực tiễn hoạt động nghệ thuật hiện thời, chúng ta còn quá dễ dãi với việc tổ
chức trình diễn tác phẩm. Nhà hát chật chội, rạp chiếu phim ồn ào, ghế ngồi xiêu
vẹo, vệ sinh không bảo đảm thì không thể nào đạt hiệu quả cao trong cảm thụ nghệ
thuật được. Tổ chức trình diễn nghệ thuật có thiếu sót sẽ tạo ra tâm lý tuỳ tiện
trong thưởng thức nghệ thuật. Nếu khán giả đến nhà hát mà mang sẵn ý thức như đến
“chợ giời” thì nghệ thuật sẽ không có môi trường
nuôi dưỡng, nó trở nên suy thoái chức năng, chẳng những gây thiệt hại cho hoạt động
nghệ thuật, mà còn góp phần tạo ra nếp sống xã hội thiếu lành mạnh. Đành rằng,
hiện nay cơ sở vật chất dành cho hoạt động nghệ thuật còn nghèo nàn, nhưng nếu
cơ quan tổ chức biểu diễn quan tâm đến việc tạo ra môi trường trang trọng cho
sự trình bày tác phẩm nghệ thuật thì chắc chắn sẽ khắc phục được nhiều nhược điểm.
Gần đây, buổi hoà nhạc do Nhạc viện Hà Nội tổ chức nhân dịp kỷ niệm 30 năm
thành lập là ví dụ thú vị về một buổi sinh hoạt nghệ thuật nghiêm túc và trau
chuốt. Buổi hoà nhạc ấy đã diễn ra trong không khí trang nghiêm, thậm chí
thiêng liêng đối với đông đảo công chúng. Tự nhiên, thính giả cảm thấy sảng
khoái, trân trọng khi nghe âm nhạc, vì thế mà buổi sinh hoạt có hiệu quả rõ
rệt.
Tóm
lại, chất lượng nghệ thuật là chất lượng của ba khâu trong quá trình hoạt động
nghệ thuật : sáng tạo của văn nghệ sĩ, kênh truyền đạt và công chúng cảm thụ tác
phẩm. Ba khâu ấy là một dây xích liên quan với nhau rất chặt chẽ, buông lỏng một
khâu sẽ gây tác động xấu đến toàn bộ quá trình. Có tác phẩm hay, phương tiện
truyền đạt tốt, lại biết tổ chức công chúng thưởng thức nghệ thuật hợp với thị
hiếu và trình độ cảm thụ của họ, thì tác phẩm nghệ thuật sẽ có tác động sâu sắc
đối với công chúng, tức là có hiệu quả xã hội.
Báo
cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VI nói tới hiệu quả xã hội của hoạt động
văn hoá, nghệ thuật, nhưng khi chúng ta tiến hành các hoạt động này để đạt hiệu
quả xã hội thì có ngay hiệu quả kinh tế đi kèm. Như vậy là trong hoạt động văn
hoá, nghệ thuật, hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế có quan hệ chặt chẽ với
nhau.
Ngày
nay, khi tiến hành các hoạt động văn hoá, nghệ thuật trước hết phải quan tâm tới
hiệu quả kinh tế của nó. Từ việc tổ chức một buổi hội thảo khoa học, cho ra đời
một cuốn sách, tờ báo, vở kịch, bộ phim hay tổ chức lễ hội đều phải tính tới hiệu
quả kinh tế. Ở đây hiệu quả kinh tế không chỉ đơn thuần có nghĩa là doanh thu
nhiều, mà cái chính là tổ chức thế nào cho tiết kiệm, sử dụng nhân tài, vật lực
hợp lý mà đạt kết quả tối ưu. Có những tiết mục doanh thu không nhiều, thường
khi phải bù lỗ, vẫn có vấn đề hiệu quả kinh tế. Khi một vỡ diễn tốt, cuốn phim
hay, tiểu thuyết mới thu hút được sự chú ý của đông đảo công chúng, kịch và
phim ấy sẽ phổ biến rộng rãi và phát hành rộng rãi và xuất cảng ra nước ngoài,
sách in với số lượng lớn và phát hành rộng khắp, kết quả là doanh thu của tác
phẩm sẽ lớn. Trong trường hợp này hiệu quả kinh tế thống nhất và tỷ lệ thuận với
hiệu quả xã hội. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của nghệ thuật
không phải lúc nào cũng đi song hành với nhau theo tỷ lệ thuận.
Vấn
đề đặt ra như sau : trong công cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá hiện thời, chúng
ta đang đấu tranh để khẳng định hệ thống giá trị mới, phê phán và loại bỏ các
giá trị phi xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh quyết liệt ấy, bên cạnh những
tác phẩm nghệ thuật chân chính được lớp công chúng tiến bộ ủng hộ, vẫn còn tồn
tại một số tác phẩm giả nghệ thuật do lớp công chúng lạc hậu nuôi dưỡng. Vì vậy
khi thấy một vở diễn ăn khách, trước hết chúng ta phải xem khách ấy thuộc lớp công
chúng nào, do nguyên nhân nào mà tán thưởng. Chỉ sau khi đã xem xét kỹ càng mới
có thể nhận định về hiệu quả xã hội của vở diễn được. Nghe nói có bà bán hàng ở
chợ Sắt, Hải Phòng xem một vở cải lương tới 18 lần. Bà ấy ngồi bán hàng, có người
mang vé đến theo hợp đồng hàng ngày. Nếu nhà hát chỉ phục vụ lớp công chúng như
bà bán hàng trên đây thì chỉ có thể tạo ra hiệu quả xã hội giả mạo mà thôi.
Bàn
về hiệu quả xã hội, không thể nào bỏ qua cái gọi là hiệu quả tức thời và hiệu
quả lâu dài của nghệ thuật. Dường như lâu nay chúng ta chỉ mới chú ý đến cái trước
mắt, muốn tác phẩm nghệ thuật tức khắc phải có tác dụng đến các việc tuyển quân,
thu thuế, làm thuỷ lợi, làm cho nghệ thuật trở thành tác phẩm cổ động tức thời.
Đành rằng nghệ thuật có nhiệm vụ đóng góp vào việc bồi dưỡng tình cảm và ý thức
của nhân dân, động viên và cổ vũ họ vượt qua khó khăn tiến lên hoàn thành mọi
nghĩa vụ xã hội, nhưng biến nghệ thuật thành một tác phẩm thuần tuý cổ động là không
đúng với bản chất của nó.
Thực ra, tác động của nghệ thuật là thứ tác động lâu dài ngấm dần, nhiều
chiều, nhiều bình diện, từ đó mà tạo ra hiệu quả xã hội, tức là góp phần hình
thành nên nhân cách. Hiệu quả xã hội của hoạt động nghệ thuật là mức độ tác động
của nó vào tinh thần, tâm hồn người thưởng thức ; là sức tạo nên những niềm
vui, những âm hưởng vươn lên cao cả, thanh khiết, tạo nên những xúc động nhân đạo,
đầy thương yêu con người, tạo nên trạng thái tinh thần tốt đẹp, nhiều khoái cảm
thẩm mỹ. Nếu những hoạt động nghệ thuật diễn ra liên tục lâu dài, những tác động
trên tích luỹ trong người thưởng thức tạo nên trạng thái tinh thần, đạo đức cao
cả một cách bền vững và như vậy là xây dựng thế giới tinh thần cao đẹp của con
người, là xây dựng con người có nhân cách ngày càng tốt đẹp.
Trách
nhiệm những người quản lý văn hoá và cả các nghệ sĩ sáng tác và biểu diễn đều
phải nghĩ đến công chúng, những người xem, nghe, hiểu được nhu cầu và thị hiếu
lành mạnh của công chúng, phải cố gắng làm cho cảm hứng sáng tác và trách nhiệm
tổ chức hướng vào công chúng, phù hợp với trạng thái tinh thần của công chúng,
nhằm vào hướng nâng cao công chúng, không nên chỉ biết có cảm hứng chủ quan và
chỉ có tự thoả mãn cảm hứng chủ quan, tuy rằng rất cần tôn trọng cảm hứng của
nghệ sĩ. Người nghệ sĩ chân chính là người nghệ sĩ có cảm hứng thống nhất với cảm
hứng của nhân dân, bắt nguồn từ cảm hứng chân chính của nhân dân.
Người quản lý văn hoá tuyệt nhiên không thể ỷ vào khó khăn
vật chất mà tuỳ tiện dễ dãi trong tổ chức hoạt động nghệ thuật. Tuỳ tiện dễ dãi
trong tổ chức hoạt động là coi thường công chúng, là thiếu trách nhiệm trước
họ.
Về
mặt này, muốn tính đến và tạo ra hiệu quả xã hội tích cực và tốt đẹp, cũng phải
thấm nhuần tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
Số phận của nghệ thuật thường khi còn dài hơn cuộc đời
của một chế độ. Chế độ nô lệ, phong kiến đã ra đời, phát triển rồi kết thúc, nhưng
tác phẩm nghệ thuật sinh ra từ các chế độ ấy còn tồn tại mãi mãi với thời gian.
Phương Tây có câu : “Thời gian cũng phải sợ Kim tự tháp” là theo nghĩa này.
Tác
động của nghệ thuật chân chính không chỉ dừng lại ở một thế hệ, một thời đại, một
khung trời mà giá trị của nghệ thuật có thể xuyên thủng làn sương mù thời gian để
vươn lên với ánh sáng tương lai.
Trên
đây vừa phân tích tác động tích cực của nghệ thuật chân chính, thiết tưởng cũng
nên nói đến tác động tiêu cực của nghệ thuật giả, tác phẩm xấu. Chẳng hạn, một
tác phẩm có tư tưởng xấu mà hình thức diễn đạt trau chuốt, tinh vi có thể đánh
lừa công chúng. Nó ngấm dần đầu độc quá trình hình thành nhân cách, góp phần
tạo nên sự lộn xộn trong nếp sống mới của chúng ta. Nhiều thực nghiệm cho biết
các cháu nhỏ sống trong môi trường nhạc giật gân, âm lượng quá ngưỡng, sẽ tạo ra thứ tâm lý què quặt, bệnh hoạn.
Như vậy khi nói đến hiệu quả xã hội của nghệ thuật ta
thấy có hai mặt : hiệu quả tích cực và hiệu quả tiêu cực và chúng ta không
nên quên rằng : kẻ địch thường sử dụng tác phẩm nghệ thuật như một phương tiện
tác động tinh vi để phá hoại tư tưởng và tình cảm trong sáng của nhân dân.
Để
đảm bảo hiệu quả xã hội tích cực cho hoạt động nghệ thuật, cần quan tâm đầy đủ đến
khâu tổ chức công chúng. Gần đây, việc tổ chức biểu diễn có lúc đã để trôi nổi,
đoàn nào muốn diễn ở đâu thì diễn, quảng cáo rùm beng thế nào cũng xong, kết quả
là tác phẩm thường không tìm được bạn tâm huyết là lớp công chúng tiến bộ. Thay
vào đó, những người nhiều tiền mua được vé, lớp người có thị hiếu tầm thường
chiếm hết chỗ ngồi trong rạp hát. Họ bỏ tiền ra mua vé nuôi sống nhà hát, họ biểu
thị sự khen chê theo nhu cầu giải trí thấp kém và thị hiếu thưởng thức lạc hậu
của họ. Kết quả nghệ thuật sẽ bị hạ thấp chất lượng và hiệu quả xã hội đương
nhiên bị hạn chế.
Thực
ra, nhà hát nào cũng cần đến công chúng, công chúng là lý do tồn tại của nhà hát.
Nhưng nếu chúng ta không tổ chức công chúng tức là đã để họ tuột khỏi sự quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà hát không có biện pháp điều khiển công chúng
thì lớp công chúng lạc hậu sẽ điều khiển ngược lại. Kết quả sẽ làm cho hoạt động
nghệ thuật đi chệch ra ngoài quỹ đạo của chúng ta. Vì vậy, việc cấp bách là cán
bộ quản lý văn hoá nên đứng ra tổ chức công chúng cho nghệ thuật : nhà hát nào
công chúng ấy, tác phẩm nào công chúng ấy, làm như vậy nhà hát có doanh thu mà
vẫn đảm bảo chất lượng nghệ thuật, tức là có hiệu quả xã hội tích cực.
Tổ
chức công chúng là phải hiểu được tình hình công chúng, hiểu cơ cấu dân cư, phân
bố dân cư, phân loại được tính chất và điều kiện sống, nhu cầu thị hiếu của các
nhóm dân cư khác nhau.
Có
hiểu được và phân tích được dân cư, mới có thể biết được nên đưa loại hình nghệ
thuật nào, tác phẩm nào, tiết mục nào, thể loại nào đến với bộ phận công chúng
nào. Cần phải tổ chức sự thông tin, giới thiệu (quảng cáo) một cách rộng rãi và
thường xuyên để cho mọi nhóm dân cư biết trước các chương trình kế hoạch hoạt động
(biểu diễn và sinh hoạt) để người ta chủ động dự trù thời gian và tiền bạc. Tốt
nhất là cần có sự tiếp xúc và hợp đồng giữa các đơn vị nghệ thuật và các tổ chức
dân cư.
Xét
đến cùng thì tác phẩm nghệ thuật vẫn là khâu quyết định nhất làm nên hiệu quả xã
hội tích cực. Muốn có tác phẩm tốt, trước hết cần có sự quan tâm thích đáng đến
người làm ra nó - lớp văn nghệ sĩ.
Chúng
ta đã biết sáng tạo nghệ thuật không phải là một sự bùng cháy thình lình, hoặc
là sự mách bảo của thế lực siêu nhiên mà sáng tạo nghệ thuật được tạo ra từ vốn
sống dày dặn, từ lao động gian khổ và từ thái độ nhân đạo cộng sản đối với xã hội.
Chúng
ta cần nhanh chóng có chính sách thoả đáng khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tạo ra
những tác phẩm ngang tầm dân tộc và thời đại.
*
* *
Muốn
có hiệu quả xã hội tốt và ngày càng lớn thì phải có chất lượng cao của hoạt động
văn hoá văn nghệ, có chất lượng cao của các tác phẩm nghệ thuật, của việc truyền
bá nghệ thuật và của sự tổ chức công chúng.
Đó là trách nhiệm của mọi cấp lãnh đạo và mọi cấp quản
lý văn hoá. Trách nhiệm của tất cả các cán bộ văn hoá và trách nhiệm của mọi
nghệ sĩ. Việc nghiên cứu các chính sách chế độ cho hoạt động văn hoá, văn nghệ
phải được nghiên cứu trên cơ sở các tư liệu phân tích khoa học đặc thù của lao động
sáng tạo, đặc thù của tổ chức hoạt động văn hoá, văn nghệ và đặc thù thưởng
thức của công chúng, không thể chỉ là những sự tính toán đơn giản và thiếu hiểu
biết. Cần quán triệt tư tưởng “giải phóng mọi năng lực sản xuất” và tinh thần đổi
mới, tinh thần dân chủ trong mọi việc nghiên cứu chính sách chế độ. Chính sách
chế độ thật tốt là điều kiện có tính quyết định trong việc nâng cao chất lượng
nghệ thuật và hiệu quả xã hội của hoạt động văn hoá, văn nghệ.
Chương
IV
Về đổi mới và phát triển văn nghệ
Đường
lối của Đảng ta trên lĩnh vực văn nghệ suốt mấy chục năm qua là đúng đắn và
nhất quán. Nó là sự vận dụng sáng tạo các nguyên lý mỹ học Mác – Lê-nin vào
thực tiễn cách mạng và thực tiễn văn nghệ của đất nước ta, là sự thể hiện các
luận điểm và tư tưởng lớn về văn nghệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của các đồng
chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Dưới ánh sáng đường lối đó đội ngũ
văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn nghệ chúng ta đã xây dựng được một
nền văn nghệ thực sự trưởng thành với sự có mặt và hoạt động tích cực của vô số
các loại hình, loại thể đa dạng và nhiều vẻ, xét về mặt số lượng và với tính tư
tưởng và tính nghệ thuật ngày càng được nâng cao về chất lượng.
Song
văn nghệ ta vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi khách quan của cách mạng cũng như
mong muốn chính đáng của nhân dân ta, của công chúng đối tượng phục vụ, nên
trên cơ sở khẳng định lại và cụ thể thêm bản chất, chức năng và vai trò của văn
nghệ, Đại hội Đảng lần thứ VI vừa qua một lần nữa khẳng định rõ vai trò đặc
biệt quan trọng của văn nghệ, chức năng của văn nghệ, nhấn mạnh vai trò bồi
dưỡng tâm hồn tình cảm, xây dựng bản lĩnh và nhân cách con người. Đại hội còn
đề ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng văn nghệ hơn nữa theo tinh thần đổi mới
tư duy, đổi mới nhận thức và hành động cần thiết hiện nay. Nếu có thể nói Đại
hội VI là Đại hội của đổi mới, Đại hội về giải phóng tiềm năng sản xuất nói
chung trên toàn bộ đời sống xã hội thì cũng có thể nói riêng trên lĩnh vực văn
nghệ : Đại hội đòi hỏi văn nghệ ta phải có một sự đổi mới về chất, một sự phát
triển mới về chất lượng, một sự giải phóng sức sáng tạo nghệ thuật của toàn
giới văn nghệ sĩ yêu nước và yêu nghề, yêu chủ nghĩa xã hội và yêu văn nghệ
chúng ta.
Để
đáp lại đòi hỏi chính đáng đó của Đảng và cũng là đòi hỏi tất yếu của quy luật
phát triển khách quan của bản thân văn nghệ, toàn thể đội ngũ những người làm
công tác văn nghệ, nhất là anh chị em văn nghệ sĩ chúng ta rõ ràng phải tiến
hành một sự đổi mới toàn diện : đổi mới trong nhận thức và trên hành động, đổi
mới trong nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm, của phong
trào văn nghệ, đổi mới về tổ chức và cơ chế quản lý, về cán bộ và phong cách
làm việc …
Trên
tinh thần của yêu cầu đổi mới đó, ta cần bàn thêm về nhiệm vụ của văn nghệ và
nghệ sĩ, cũng như về công tác quản lý văn nghệ.
*
* *
Trước
hết về bản chất của nền văn nghệ ta, Đại hội VI một lần nữa khẳng định : “đó là
một nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc”. Điều này nói lên
rằng từ trong bản chất văn nghệ ta phải cùng một lúc có hai đặc điểm cơ bản
nhất, quán xuyến nhất hay cũng có thể nói là bao trùm nhất : ấy là tính chất xã
hội chủ nghĩa và tính dân tộc Việt Nam.
Sở dĩ như vậy vì đã là văn nghệ bao giờ cũng là văn nghệ của một dân tộc cụ thể
nhất định và phải mang dấu ấn sâu sắc bản sắc dân tộc của dân tộc đó. Chưa bao
giờ và sẽ không bao giờ có một thứ văn nghệ phi dân tộc hay siêu dân tộc, chừng
nào vẫn còn dân tộc và sự sinh thành và phát triển của con người nói chung và
tính cách con người nói riêng còn chịu sự chi phối và ảnh hưởng từ phía cộng
đồng dân tộc. Cho đến nay và chắc còn rất lâu về sau, bất cứ một con người cụ
thể nào cũng đều là con người thuộc một dân tộc cụ thể nhất định. Văn nghệ phản
ánh cuộc đời và số phận của những con người cụ thể như vậy, nên văn nghệ không
thể không mang tính dân tộc. Bản thân tính quốc tế của văn nghệ xã hội chủ
nghĩa trên thế giới hiện nay cũng chính là xuất phát từ tính dân tộc, dựa vào
và nói lên tính dân tộc chân chính và độc đáo của từng nền văn nghệ dân tộc của
mỗi dân tộc cụ thể.
Nhìn
vào thời đại ngày nay của chúng ta, dân tộc ta rõ ràng đã không còn là dân tộc
phong kiến cũng không phải là dân tộc tư bản chủ nghĩa, mà đã chuyển sang phạm
trù dân tộc xã hội chủ nghĩa. Đảng và dân tộc ta đã chọn cho mình con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội. Tuy hiện nay trên đất nước ta hãy còn chưa có chủ nghĩa
xã hội với mọi biểu hiện đầy đủ của nó, song hoạt động của toàn dân, toàn Đảng
ta không nằm ngoài quỹ đạo chung của chủ nghĩa xã hội. Không nên nghĩ máy móc
rằng hiện nay xã hội ta đang ở thời kỳ quá độ thì văn nghệ ta cũng là văn nghệ
quá độ. Nếu nghĩ theo kiểu như vậy, hẳn phải gọi tên nước là Cộng hoà quá độ
Việt Nam ?
! Còn một cách nghĩ khác cũng không hoàn toàn chính xác : văn nghệ xã hội chủ
nghĩa là văn nghệ phản ánh hiện thực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu hiểu một
cách máy móc như vậy thì dù muốn hay không chúng ta đã loại ra khỏi nền văn
nghệ mới tất cả những tác phẩm viết về các đề tài lịch sử hay các đề tài hiện
đại mặc dù tác phẩm được viết dưới ánh sáng của lập trường xã hội chủ nghĩa.
Văn
nghệ ta ngày nay tất yếu phải là văn nghệ xã hội chủ nghĩa không phải chỉ vì
đối tượng phản ánh của nó chủ yếu là hiện thực xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà
trước hết và trên hết là do lập trường đánh giá và nhìn nhận, tư tưởng chủ đạo
trong toàn bộ sự phản ánh nghệ thuật của nó là lập trường xã hội chủ nghĩa, là
tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Nếu mượn các từ mới của kinh tế, có thể nói được
rằng do “đầu vào” của văn nghệ ta là các nguyên vật liệu được lấy từ cuộc sống
và con người của một dân tộc cụ thể đang
dựng xây chủ nghĩa xã hội và lò luyện của nó là lò luyện của ánh sáng, của ngọn
lửa xã hội chủ nghĩa, nên “đầu ra” phải là các sản phẩm cùng một lúc vừa mang
tính chất xã hội chủ nghĩa, vừa mang tính chất dân tộc Việt Nam.
Không
nên ghép tính chất này vào nội dung, còn tính chất kia cho hình thức, bởi vì cả
hai tính chất đó đều được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức. Nếu chủ nghĩa
xã hội chỉ được hiểu như một khái niệm trừu tượng của khoa học, thì vô luận ở
nước nào, dân tộc nào, nó cũng chỉ là chính nó, là một, là như nhau, song nếu
hiểu là một công cuộc xây dựng thực tế cụ thể thì ở mỗi nước, mỗi dân tộc một
khác, và lúc này chính là lúc nó mang tính chất dân tộc cụ thể. Chính trường
hợp này mới là trường hợp có liên quan tới văn nghệ, vì văn nghệ bao giờ cũng
phản ánh những cái cụ thể. Như vậy, một khi ở cái được phản ánh đã có sự kết
hợp khó mà tách ra nổi trên thực tế (tất nhiên, trên lý thuyết là có thể tách
ra được) của tính chất xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc cụ thể và tiếp đó
cái phản ánh lại phản ánh theo kiểu văn nghệ tức là vẫn giữ lại tính chất cụ
thể toàn vẹn của đối tượng, của cái được phản ánh thì hiển nhiên sự kết hợp của
hai tính chất đó vẫn được giữ lại.
Điều
này nói lên rằng văn nghệ ta từ trong bản chất cùng một lúc mang cả tính chất
xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc cụ thể và đó là một tất yếu, một quy luật
của phản ánh, chứ không hề là một sự gán ghép tuỳ tiện và chủ quan của một ai
hay của Đảng ta.
*
* *
Những
điều vừa trình bày trên về bản chất của văn nghệ ta cho ta thấy rằng để không
ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng của nó theo yêu cầu của Đại hội VI, chúng ta
nhất thiết phải đổi mới, phải sửa đổi và hoàn thiện tất cả những gì có liên
quan tới việc nâng cao cùng một lúc mỗi mặt và cả sự kết hợp hai mặt bản chất
nói trên của văn nghệ.
Những
người làm công tác văn nghệ, nhất là anh chị em văn nghệ sĩ chúng ta, lúc này,
trước vô số các khó khăn và tiêu cực trong đời sống xã hội, trong cuộc đấu
tranh quyết liệt giữa hai con đường, hơn lúc nào hết, cần quán triệt cả đường lối
chung lẫn các cách nhìn, các phương hướng, các chiến lược và sách lược, các
giải pháp và biện pháp của Đảng ta, lấy đó làm chỗ dựa tin cậy và đúng đắn nhất
để xem xét và nhìn nhận, đánh giá và giải quyết các vấn đề và nhiệm vụ nghệ
thuật cụ thể của mình. Những sai lầm vừa qua của Đảng ta quả có làm giảm sút
niềm tin trong nhân dân ta, song Đảng ta đã tiến hành tự phê bình, phê bình và
cái sai lầm đang được sửa chữa và khắc phục trên thực tế. Vậy nên không thể vì
cái sai của hôm qua mà phủ nhận cái đúng trong hôm nay. Đối với những người
không phải là nghệ sĩ thì đây quả thật không chỉ là bất hạnh và thất bại, mà
thậm chí trên một ý nghĩa nhất định nào đó có thể nói là tự sát. Sức mạnh và vũ
khí quan trọng nhất của nghệ sĩ là tình cảm và niềm tin. Để tình cảm suy sụp,
để lòng tin giảm sút - đối với nghệ sĩ, ấy là mất tất cả.
Vậy
nên, hơn lúc nào hết, trong thời điểm căng thẳng nhiều mặt này của dân tộc, của
cách mạng, người nghệ sĩ ta cần hết sức bình tĩnh và tỉnh táo, sử dụng thật tốt
vốn liếng hiểu biết khoa học và kinh nghiệm từng trải của mình xem xét và đánh
giá chính xác các hiện tượng và quá trình đang diễn ra quanh mình, để trên cơ
sở đó khẳng định và đề cao những cái thực sự xã hội chủ nghĩa, hãy đi đúng theo
quỹ đạo xã hội chủ nghĩa đồng thời phủ định và lên án tất cả những gì ngược lại
và những gì đang “lập lờ”, “nước đôi”, “hai mặt” vừa lợi dụng danh nghĩa chủ
nghĩa xã hội, danh nghĩa Đảng và đục khoét chủ nghĩa xã hội, làm hại sự nghiệp
của Đảng.
Và để làm tốt được điều đó, rõ ràng là người nghệ sĩ cần
nắm vững và vận dụng thật tốt lập trường tư tưởng xã hội chủ nghĩa của chủ
nghĩa Mác – Lê-nin và của Đảng ta để xác định và nắm bắt vừa nhạy bén vừa chính
xác cho được những con người và hiện tượng, những hành động và tác phong, việc
làm và lời nói, thái độ và dáng điệu … thể hiện tiêu biểu được bản chất kép xã
hội chủ nghĩa và dân tộc Việt Nam, dân tộc Việt Nam và xã hội chủ nghĩa. Cần
nhấn mạnh rằng đây không phải là một đòi hỏi quá đáng hay phi lý, bởi vì những
con người và hiện tượng như vậy là có thật và không ít trong hiện thực đời sống
hiện nay. Có điều là – song chính điều này làm tôn cao vị trí và sứ mệnh của
người nghệ sĩ hiện nay – trong hiện thực đó những con người và hiện tượng ấy
không đứng sẵn trên những bục cao vượt lên và tách ra mà thường hoà lẫn và chìm
trong vô số các hiện tượng và con người nhìn bên ngoài thì đại thể cũng giống
nhau hay tỏ ra giống nhau.
Như
vậy, về lý luận cũng như trên thực tế, văn nghệ ta hiện nay không thể chỉ là xã
hội chủ nghĩa nói chung và cũng không thể chỉ là dân tộc Việt Nam chung cho mọi
thời đại, mà chỉ và phải là cùng một lúc vừa là xã hội chủ nghĩa vừa là Việt
Nam, là văn nghệ Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay, ngày nay.
*
* *
Ở
trên mới là xét bản chất của bản thân văn nghệ ta hiện nay, theo cách xác định
của Đại hội VI và cũng là của Đảng ta nói chung suốt mấy chục năm qua. Bây giờ
ta hãy xét mối quan hệ của văn nghệ với xã hội, với con người xã hội.
Văn
nghệ ra đời và phát triển được là do xã hội có nhu cầu về nó. Và chính con
người xã hội đã làm ra văn nghệ để thoả mãn các nhu cầu đó. Vậy đối với xã hội
và con người xã hội, văn nghệ cụ thể là gì ? – Là hình thái đặc biệt của ý thức
xã hội ? – Là món ăn tinh thần ? – Là môn thuốc ? – Là vũ khí đấu tranh tư
tưởng ? – Là một nền văn nghệ gồm vô số các tác phẩm có hình hài vật chất ai
cũng có thể thấy và thậm chí sờ mó được ? – v.v…
Rõ
ràng không thể loại bỏ được một cái “là” nào trong tất cả những cái vừa kể, bởi
vì cái nào cũng đúng cả. Cũng như có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hoá,
về con người … Điều này nói lên rằng văn nghệ là một chỉnh thể đa diện, nên cần
nhìn nhận nó một cách toàn diện, chứ đừng phiến diện, quá cường điệu và nhấn
mạnh mặt này, xem thường hay loại bỏ mặt kia. Đồng thời cũng đòi hỏi chúng ta
phải đặt văn nghệ vào những quan hệ cụ thể, những hoàn cảnh không gian và thời
gian cụ thể, những điều kiện và trường hợp cụ thể mà tiến hành xem xét, đánh
giá và đề ra những yêu cầu cụ thể. Có làm như vậy mới đúng về phương pháp và
nhờ đó có cơ sở đề ra những giải pháp đúng đắn cụ thể, có lợi cho sự nghiệp
phát triển văn nghệ và có lợi cho việc sử dụng văn nghệ đối với xã hội. Ví dụ,
nhìn nhận văn nghệ trên tư cách một tác phẩm phải khác với văn nghệ trên tư
cách một nền, còn khi nhìn nhận một nền văn nghệ thì mặc dù văn nghệ chân chính
của mọi thời đại đều là văn nghệ, song văn nghệ của thời nay vẫn có cái khác
thời xưa, văn nghệ của nước này, dân tộc này không hoàn toàn giống với văn nghệ
nước khác, dân tộc khác, …
Đành
rằng văn nghệ là một hình thái của ý thức, chứ không phải của vật chất, xét
trong quan hệ của nó với các thành phần khác, bộ phận khác của cấu trúc xã hội,
thế nhưng nếu chỉ dừng sự xem xét ở đấy thôi mà không tính tới cơ sở tồn tại
vật chất, hình hài vật chất để “mang chứa” hay “chuyên chở” các thứ thuộc ý
thức, các tình cảm và tư tưởng, thì làm sao xây dựng được nền văn nghệ, phát
triển được phong trào văn nghệ.
Các
giai cấp thống trị xưa kia và giai cấp lãnh đạo ngày nay đều sử dụng văn nghệ
như là một vũ khí lợi hại của đấu tranh giai cấp trên mặt trận tư tưởng và điều
này được tiến hành vừa với một ý thức đầy đủ, vừa bằng những biện pháp và hành
động tích cực trong thực tế. Thế nhưng đó là từ phía các tầng lớp, các chính
đảng có sứ mệnh lãnh đạo xã hội, còn xét từ phía nhân dân - đối tượng tác động
của vũ khí văn nghệ - thì tình hình lại khác. Nếu họ biết đấy là vũ khí thì họ
chả thích, họ thích và cần các món ăn tinh thần đẹp và ngon kia. Họ cũng chẳng
thích thưởng thức thứ văn nghệ như uống một liều thuốc, cho dù là thuốc tốt,
thuốc bổ. Họ đến với văn nghệ chủ yếu và trước hết là để được thích, được
sướng, được vui, được giải trí, để được hưởng những cái hay, cái đẹp, để đời đỡ
buồn, đỡ khổ hơn, được tươi hơn. Vậy nên cần phải hiểu các ý nghĩa khác nhau
của các từ vũ khí, thức ăn, môn thuốc một cách rộng rãi hơn, linh hoạt hơn, mềm
dẻo hơn. Anh là cán bộ tuyên huấn hay cán bộ văn hoá, anh bảo văn nghệ là vũ
khí. Được thôi, nhưng tôi là kỹ sư thiết kế, là công nhân xây dựng … tôi chẳng
thấy nó là vũ khí gì hết, tôi chỉ thấy là thỉnh thoảng trong ngày phải hát,
phải ngâm lên dăm ba câu hát, câu thơ, không thì không chịu nổi. Vấn đề ở đây
không phải là ai đúng, ai sai mà là : anh coi văn nghệ là vũ khí cũng được, tôi
coi văn nghệ là món ăn cũng không sao, cái chất của vấn đề là văn nghệ của ta
có hay, có đẹp không, có làm cho đông đảo công chúng chúng tôi mê không, nếu
không đẹp, không hay thì dù là gì chúng tôi cũng không xem, không nghe, không
đọc và chẳng ai bắt buộc nổi chúng tôi.
Thế
đấy, sự thật khắc nghiệt là thế. Vậy nên từ tất cả những gì thực sự là xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nói trên kia trong hiện thực cuộc sống nhất thiết phải được
nghệ sĩ nhào nặn lại cho thành những cái nghệ thuật vừa thể hiện được tiêu biểu
nhất cái Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lại vừa đẹp, vừa hay, có sức hấp dẫn lớn
đối với công chúng thưởng thức.
Như
vậy, dù là món ăn hay vũ khí, dù là hình thái ý thức hay hình hài vật chất, văn
nghệ - bất luận thế nào, trước hết phải là nghệ thuật, thật sự là nghệ thuật
với toàn bộ sức hấp dẫn và cuốn hút mạnh mẽ của nó. Và không phải ngẫu nhiên mà
Đại hội VI đã đòi hỏi chúng ta “phải tính đến hiệu quả xã hội” của văn nghệ.
*
* *
Nâng
cao chất lượng và tính đến hiệu quả xã hội của văn nghệ là hai mặt gắn bó hữu
cơ biện chứng của nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn nghệ dân tộc xã hội chủ nghĩa chúng ta ngày
nay. Nâng cao chất lượng của bản thân văn nghệ là để gia tăng hiệu quả tác động
của nó vào con người và đời sống xã hội và tính đến hiệu quả xã hội của văn
nghệ có nghĩa là phải nâng cao chất lượng ở tất cả các khâu công tác của toàn
bộ quá trình xây dựng và vận hành của văn nghệ trong đời sống xã hội.
Ta
hãy kể đến ở đây những khâu cơ bản :
1)
Bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghề nghiệp và đầu tư giúp đỡ các văn nghệ sĩ
xây dựng cho mình một đời sống tinh thần tâm lý tiên tiến nhất cùng với một đời
sống vật chất ổn định.
Chúng
ta cần có những nghệ sĩ có tài năng, có hoài bão sáng tạo lớn, có ý thức sâu
sắc đấu tranh cho độc lập dân tộc và xây dựng xã hội tốt đẹp. Ta có một đội ngũ
nghệ sĩ được rèn luyện tốt trong đấu tranh cách mạng, là những chiến sĩ đáng tin
cậy của cách mạng Việt Nam.
Chúng ta mong rằng các nghệ sĩ ngày càng nâng cao cảm hứng sáng tạo của mình vì
lợi ích của dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Xưa
nay không thiếu gì những tấm gương tuyệt vời : người nghệ sĩ chân chính và tài
năng làm nghệ thuật vì “say tình người”, chứ không phải vì miếng cơm manh áo,
vì tiền tài hay danh lợi !
Người
nghệ sĩ có thể không phải là triết gia, nhưng tư tưởng bao giờ cũng là linh hồn
của nghệ thuật cho nên nghệ sĩ cũng cần là nhà tư tưởng. Sức lay động sâu xa
nhất của tác phẩm nghệ thuật chính là sức lay động của những tư tưởng thẩm mỹ
tiên tiến. Chiều sâu của sáng tạo phụ thuộc vào chiều sâu nhận thức của người
nghệ sĩ, những tư tưởng lớn luôn luôn có sức cổ vũ mạnh mẽ và có tác dụng soi
đường hết sức quan trọng.
Nghệ
thuật không chỉ là kết tinh của trí tuệ mà còn là bông hoa của tâm hồn, sáng
tác là kết quả của một sự thôi thúc từ bên trong. “Văn nghệ sĩ sáng tác do chỗ
đời sống bên trong phong phú tràn đầy đến nỗi phải nói ra. Phải làm sao cho đời
sống bên trong thật phong phú, cảm xúc thật mạnh mẽ đến mức phải thốt ra, lúc
đó mới mong có diễn tả tốt, có giá trị” (Phạm Văn Đồng : Tổ quốc ta, nhân dân
ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1969,
tr.62-63).
Có
xuất phát từ nguồn cảm hứng gắn với tình cảm sâu đậm của tác giả, quá trình
sáng tác mới trở thành “đứa con tinh thần” phản ánh chân thực cuộc sống với cả
những nỗi niềm, tâm sự, ước vọng của người nghệ sĩ. Đảng yêu cầu người nghệ sĩ
coi sự nghiệp cách mạng của dân tộc là hoài bão của chính mình, gắn bó mật
thiết với sự nghiệp ấy bằng một tâm hồn “lộng gió, lộng ánh sáng, lộng màu sắc,
hương vị” để từ đó tiến hành sáng tạo nghệ thuật trong “tình cảm mãnh liệt thể
hiện sự nóng cháy trong lòng”. Nghệ sĩ phải là người yêu thương hết mức, băn khoăn
đến day dứt, mong ước đến thiết tha đóng góp vào sự nghiệp đấu tranh cho cái
mới, cái tiến bộ, cái đẹp, cái cao cả đồng thời phải là người có trách nhiệm
cao đối với lao động của mình trong việc tạo ra những tác phẩm văn nghệ xứng
đáng với dân tộc và thời đại. Nói một cách khái quát, lao động của người nghệ
sĩ trong bản chất của nó là một lao động tự giác hay nói như Sô-lô-khốp, lao
động ấy làm theo “mệnh lệnh của trái tim” người nghệ sĩ “mà trái tim ấy lại
thuộc về cách mạng, về Đảng và về nhân dân thân yêu”, v.v…
Khâu
đầu tiên này có ý nghĩa tiên quyết vì nó trực tiếp tạo nên chất lượng tác phẩm.
Không làm tốt nó, đừng mong nâng cao chất lượng và hiệu quả nói chung.
2)
Cung cấp và trang bị những phương tiện vật chất - kỹ thuật cần thiết cho việc
xây dựng các tác phẩm thuộc những loại hình, loại thể nghệ thuật khác nhau.
Cung cấp hoàn toàn không có nghĩa là “cho không” nói chung, song đối với một số
trường hợp cụ thể nhất định nào đó nếu không biết “cho không” hoặc tìm ra những
cách tế nhị nhất để “cho không” và được người ta nhận thì thật là đáng trách và
có khi đáng ân hận mãi mãi. Thế kỷ XX sắp hết rồi, đất nước đã thống nhất rồi,
chủ nghĩa xã hội đã được tuyên bố rồi … dù nghèo thì nghèo, dù khó thì khó,
không nên chỉ mãi quen với việc thả con săn sắt nữa, hãy thả những con gà, con
chó, con lợn, … để lấy những con voi, con hổ, con sư tử ! Nghĩa là phải có cách
nghĩ đến những việc làm ra việc làm, làm những việc ra tấm ra miếng, đừng có
lây nhây mỗi thứ một tý, rút cục không có được cái gì.
Thật
ra, với trình độ phát triển ngày nay của kỹ thuật và công nghiệp, nếu biết làm
ăn và làm ăn có lương tâm thì làm gì đến nỗi. Thật là không tha thứ được khi
một tuýp sơn dầu người hoạ sĩ phải mua với giá 200, rồi 500 và hơn nữa ! Nếu
biết sử dụng tốt các quan hệ hữu nghị và buôn bán quốc tế thì điều kiện cải
thiện tình hình ở đây càng tốt hơn nhiều.
3)
Nâng cao năng lực và trình độ đánh giá, xét duyệt của những tổ chức có trách
nhiệm. Gấp rút thay đổi, bổ sung đội ngũ những người có trách nhiệm thay mặt
Đảng và Nhà nước ta trong công việc này và tổ chức thật tốt việc đánh giá, xét
duyệt cũng như giải quyết cách thức sử dụng các sản phẩm của nghệ sĩ, nâng cao
uy tín thực tế của sự đánh giá chính thức này, tạo nên sự tin cậy và yên tâm
sâu sắc của mỗi và mọi tác giả. Cần nhớ rằng đánh giá đúng những hay dở, mạnh
yếu của mỗi tác phẩm là đòi hỏi khách quan chính đáng cùng một lúc từ cả hai
phía : nghệ sĩ và xã hội, người sáng tạo nghệ thuật và người cảm thụ nghệ
thuật. Cần chấm dứt tình trạng giao phó số phận của tác phẩm – và xét trên một
mức độ nhất định, cũng là số phận của tác giả - cho những người không có đủ
những điều kiện cần thiết về năng lực và phẩm chất của tư cách đánh giá chính
thức. Điều rất đáng buồn ở đây không phải là ta không có những người có tư cách
như vậy, mà là những người có đủ những điều kiện của tư cách đó lại không có
được tư cách chính thức.
Trong
tình hình eo hẹp hiện nay, nếu ta làm tốt được khâu đánh giá và sử dụng này,
cho dù mức nhuận bút chưa được nâng lên tới mức thích đáng cần thiết, chắc chắn
vẫn làm vợi được nhiều nỗi đau khi dằn vặt và tạo nên một sự phấn khởi tinh
thần cần thiết ở người trí thức sáng tạo. Xin nhắc rằng ở ta không có chuyện
tác giả tự in, tự sử dụng và trao đổi sản phẩm của mình, mọi sản phẩm tinh thần
(nghệ thuật, khoa học, v.v…) đều phải “bán buôn”, “bán chạy” ngay cho Nhà nước,
trong khi đó thì không ít những người đại diện cho Nhà nước ở đây lại làm ăn
xem ra rất cửa quyền và xử sự rất “kém văn hoá”.
4)
Nâng cao chất lượng các khâu tổ chức phân phối và tiêu thụ các sản phẩm nghệ
thuật. Yêu cầu ở đây là phân phối các loại sản phẩm sao cho đúng đối tượng tiêu
dùng của từng loại và tổ chức thật tốt việc tiêu thụ (quá trình cảm thụ đối với
các loại hình nghệ thuật như sân khấu, điện ảnh, âm nhạc, múa, mỹ thuật, v.v…) để
chất lượng của tác phẩm, tài năng của nghệ sĩ không những không bị giảm sút mà
còn có được những điều kiện thuận lợi cần
thiết để giữ vững hoặc nâng cao thêm. Chấm dứt tình trạng giá vé tăng, còn chất
lượng biểu diễn, điều kiện cảm thụ không tăng, thậm chí kém đi.
*
* *
Nâng
cao chất lượng bản thân sản phẩm nghệ thuật và chất lượng các khâu nói trên là
khâu nhằm nâng cao hiệu quả xã hội của văn nghệ.
Cần
tính tới hai mặt của hiệu quả này : mặt kinh tế và mặt tinh thần. Đúng là mặt
tinh thần không thể cân đong đo đếm được như mặt kinh tế. Cán cân lỗ lãi của
các cơ quan nghệ thuật luôn luôn là một cái gì rất cụ thể, có thể nói không
những sờ mó được mà đôi khi còn là hoặc “rát tay, nóng mặt” hoặc “sướng tay,
chóng mặt”. Không nên xem thường hiệu quả kinh tế, song không được vì nó mà để
tổn hại đến lợi ích tinh thần, để trống trận địa tư tưởng – tình cảm.
Mặt
khác, cũng không nên vì tính chất khó đếm, khó lường của giá trị tinh thần mà
xem thường ý nghĩa kinh tế, giá trị mua bán, trao đổi của nó. Cuốn sách này bán
30 đ người ta mua, bán 50 đ người ta không mua ; trong khi đó, cuốn khác có giá
thành vật chất tương đương, số trang, số chữ ngang vậy, hoàn toàn có thể bán
chạy với giá 100, thậm chí 200. Bức tranh quý ấy, cái đĩa quý ấy … là vô giá
nên giá trị trao đổi của nó không phải chỉ gấp năm, gấp mười mà gấp trăm, gấp
nghìn lần giá thông thường.
Nhìn
chung ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, việc Nhà nước bù lỗ cho các cơ quan
nghệ thuật nào đó là chuyện thường tình và không phải là không có căn cứ. Song
có nên tuyệt đối hoá điều đó và xem là tất yếu, hiển nhiên không ? đây là một
bài toán cần được giải trên những số liệu cụ thể chính xác, không thể nói chung
chung được. Điều có thể nói được ở đây là, căn cứ vào nhu cầu nghệ thuật vốn đã
cao và luôn luôn cao của đông đảo công chúng, nếu ta biết đầu tư đúng và trúng,
đầu tư thích đáng và có trọng điểm, biết tạo ra được những “mũi nhọn” xứng
đáng, đánh trúng thị hiếu chính đáng của công chúng, biết không ngừng nâng cao
chất lượng mọi mặt và mọi khâu của toàn bộ quá trình sản xuất – phân phối tiêu
dùng sản phẩm nghệ thuật, biết bắt mạch và chẩn đoán đúng các triệu chứng của
quy luật cung cầu, biết tinh giản đội quân làm công tác nghệ thuật, chắc chắn
mức độ bù lỗ sẽ giảm xuống một cách đáng kể. Một khi chất lượng vẫn còn xoàng,
không đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của đông đảo công chúng và giữa mình với
mình cũng còn thấy chưa vừa lòng, thì làm sao nói và nghĩ tới chuyện chinh phục
và chiếm lĩnh thị trường.
Mặt
tinh thần của hiệu quả xã hội là mặt quyết định, chủ yếu và bao trùm. Sứ mệnh
thiêng liêng và cao cả của văn nghệ ta là “đánh vào lòng người”, tác động vào
tình cảm, tâm lý con người theo quỹ đạo của ý thức xã hội chủ nghĩa. Tình cảm
bao giờ cũng gắn bó với tư tưởng, với lý trí ở mỗi con người. Tư tưởng và tình
cảm, thế giới quan và nhân sinh quan tiên tiến, xã hội chủ nghĩa của nghệ sĩ
đóng vai trò lập trường đánh giá và phản ánh trong quá trình thâm nhập cuộc
sống và xây dựng tác phẩm tạo nên thái độ khẳng định hay phủ định, yêu hay ghét
của tác giả đối với những hiện tượng tích cực và tiêu cực được miêu tả trong
tác phẩm. Và tiếp đó, trong quá trình cảm
thụ của công chúng, thái độ được định hướng rõ rệt và cụ thể đó có tác dụng ảnh
hưởng và chi phối thái độ, tình cảm tư tưởng của người cảm thụ trước các hiện
tượng tương tự, góp phần tích cực xây dựng và củng cố lập trường tư tưởng –
tình cảm của con người trong xã hội. Thái độ đánh giá của nghệ sĩ càng sâu sắc
và thể hiện nghệ thuật càng chân thực, sinh động bao nhiêu, tác phẩm càng có
sức thuyết phục và sự tác động vào lòng người lớn bấy nhiêu, nhờ vậy mà nâng
cao được trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân,
như đã được nói trong Báo cáo chính trị của Đại hội.
Bản
tính con người là say mê cái đẹp. Những cái đẹp trong văn nghệ không chỉ góp
phần xây dựng và củng cố lập trường đánh giá, mà còn chi phối sâu xa hành động,
tác phong của con người. Con người sẵn sàng không chỉ đi theo mà còn làm theo
cái đẹp. Có điều, việc làm theo cái đẹp như vậy không diễn ra theo kiểu bắt
chước trực tiếp và lộ liễu của trẻ con mà luôn luôn kinh qua những suy tính và
cân nhắc vừa phức tạp vừa cụ thể trong từng tình huống cụ thể. Và chừng nào
những cái đẹp của nghệ thuật chưa bắt rễ sâu xa và nảy mầm tươi tốt trong đời
sống tâm hồn của người ta, thì chúng vẫn chưa thể phát huy có hiệu quả tốt đẹp
được. Vậy không nên hiểu sự tác động của nghệ thuật như là một chi phối máy móc
và tức thì, kịp thời và trước mắt. Thật là không đúng và ngớ ngẩn nếu nghĩ rằng
sau khi đã đưa được các tác phẩm văn nghệ đến với công chúng thì có thể nán lại
chờ đợi để gặt hái kết quả tác động tinh thần. Ngay khi được người cảm thụ trả
lời đúng, có phản ứng tốt về tác phẩm đã
được thưởng thức trước đó thì cũng chưa thể xem đó đã là hiệu quả xã hội của nó
được. Các tác phẩm văn nghệ hay cũng giống như những món ăn có chất dinh dưỡng
cao, cứ thấm dần trong cả một thời gian dài vào các hệ, các cơ quan khác nhau
của toàn cơ thể để nâng cao sức khoẻ chung, nâng cao cả trình độ giác ngộ lẫn
trình độ thẩm mỹ, chứ hoàn toàn không phải là những tác phẩm này làm cho người
ta có lập trường đánh giá đúng, còn những tác phẩm kia thì giúp người ta có
ngay tác phong đẹp, … Chính vì vậy tác dụng giáo dục của văn nghệ là tác
dụng toàn diện, sâu xa và lâu bền.
Cũng
cần phân biệt rằng trong văn nghệ có những loại hình như kiến trúc, trang trí -
ứng dụng, điêu khắc, hội hoạ, đồ hoạ, … có trực tiếp làm đẹp cuộc sống, làm đẹp
môi trường sống của con người xã hội. Song nhìn chung, mọi loại hình, loại thể
văn nghệ, kể cả những loại hình vừa kể trên đều trực tiếp tác động vào đời sống
tình cảm – tâm hồn bằng những tấm gương, những mẫu mực cụ thể làm cho con người
say mê chúng và chờ sau đó, sau khi chúng đã thấm sâu, bắt rễ và nảy mầm trong
đời sống đó, con người mới “làm theo”, mới noi gương để làm đẹp mình và làm đẹp
đời bằng những hành động, tác phong và sản phẩm đẹp. Nói gọn lại, quá trình tác
động của văn nghệ vào con người xã hội có thể được công thức hoá, đại thể như
sau : [tác phẩm nghệ thuật đẹp] ®
[tình cảm, tư tưởng đẹp] ®
[hành động, tác phong, lối sống đẹp] ®
[sản phẩm đẹp] ®
[xã hội đẹp]. Chu trình nối tiếp sẽ là :
[sản phẩm đẹp] ®
[tác phẩm nghệ thuật đẹp hơn], …
Như
vậy, văn nghệ có giá trị vật chất – kinh tế, song nhìn chung và chủ yếu là giá
trị tinh thần. Các giá trị này không bỗng dưng mà có. Mỗi dân tộc phải xây dựng
cho mình một nền văn nghệ trên từng giai đoạn lịch sử, từng thời đại. Và nhiệm
vụ này chủ yếu được giao cho những người con nghệ sĩ của mình.
Trước
khi bàn tiếp về giá trị tinh thần và giá trị vật chất của văn hoá, văn nghệ,
cần làm rõ một điểm, đó là văn nghệ có phải là hoạt động phi sản xuất (do gọi
tắt khái niệm phi sản xuất vật chất), do đó chỉ là hoạt động tiêu phí, không
quan trọng không ? Có phải mọi quan tâm cần dành trước hết cho các hoạt động
sản xuất vật chất, còn sau đó mới tính đến các hoạt động sản xuất tinh thần nếu
có thừa thì giờ, thừa thãi vật tư tài chính ?
Phải
nhận xét ngay rằng đó là một quan niệm thiển cận và đơn giản. Đúng là lĩnh vực
sản xuất vật chất có những vấn đề có tính chất cấp bách và cụ thể của nó. Nhưng
đối với đời sống xã hội mà coi thường lĩnh vực sản xuất tinh thần thì là một
sai lầm không thể chấp nhận. Đại hội VI đã xác định văn nghệ phải tạo ra những
giá trị tinh thần tức là sản xuất ra những giá trị tinh thần, mà những giá trị
tinh thần thường là những giá trị lâu dài của đời sống xã hội, bồi dưỡng tâm
hồn, tình cảm, bản lĩnh và nhân cách cho con người.
Chỉ
lo những món ăn vật chất, mà không lo các món ăn tinh thần là một sự phiến
diện, là biểu hiện trình độ quá thấp kém về hiểu biết đời sống con người, là hạ
thấp vai trò con người.
Cần
gấp rút khắc phục nhận thức này mới có thể có những quan niệm đúng đắn, toàn
diện về các kế hoạch kinh tế xã hội, mới có sự quan tâm thích đáng tới vai trò
và đặc trưng của văn hoá, văn nghệ, tức là tới những vấn đề giá trị tinh thần.
Do
chỗ giá trị tinh thần nhất thiết phải được mang chứa và toát lên từ một hình
hài vật chất cụ thể, nên các giá trị nghệ thuật phải được tạo nên ở những đơn
vị sản phẩm nhất định. Thế nên đừng vì giá trị chủ yếu của văn nghệ là giá trị
tinh thần mà không tính thấu đáo tới quá trình sản xuất ra nó. Hơn nữa, hình
thức vật chất của mỗi tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng đòi hỏi khắt khe hai
điều kiện mà thiếu chúng, tác phẩm không còn là tác phẩm nữa, thậm chí không
thể xây dựng nổi.
Một
là, những nguyên vật liệu, những phương tiện vật chất - kỹ thuật mang tính chọn
lọc cao, khác với nhiều lĩnh vực sản xuất khác có thể “thôi thì có gì làm nấy”,
thậm chí có thể dùng cả các nguyên vật liệu phế thải, tái sinh.
Hai
là, bản thân quá trình xây dựng kết cấu hình thức vật chất cũng chính là quá
trình hình thành nội dung tư tưởng khách quan của tác phẩm (chứ không phải nội
dung tưởng tượng chủ quan trong đầu tác giả) với mức độ tương ứng và hoàn thiện
của hình thức vật chất này quy định mức độ thể hiện của nội dung và do đó, quy
định cả mức độ tác động của tác phẩm, nên quá trình xây dựng kết cấu hình thức
vật chất luôn luôn mang tính đòi hỏi rất cao, và là cả một quá trình lao động
hết sức tinh vi và căng thẳng của những con người có khối óc vì dân trong tài
nghệ.
Không
thể có một tác phẩm nghệ thuật hay, có sức tác động lớn khi ở nó chỉ có một nội
dung quan điểm đúng, tốt, còn hình thức nghệ thuật xoàng, kém ! Vậy thì không
thể vì tính chất ít ỏi, không đáng kể về mặt số lượng mà có thể không coi trọng
thích đáng tầm quan trọng đặc biệt về mặt chất lượng của các nguyên vật liệu và
phương tiện vật chất kỹ thuật, nhất là của việc xây dựng kết cấu hình thức vật
chất cho tác phẩm trong lĩnh vực sản xuất nghệ thuật. Không thể vì sản xuất
nghệ thuật bị ghép vào mảng sản xuất tinh thần trong cấu trúc sản xuất xã hội,
mà có thể xem thường mặt vật chất của nó.
Một
nền văn nghệ dân tộc bao giờ cũng là một tổng thể gồm vô số tác phẩm cụ thể,
tức là các đơn vị sản phẩm vật chất ; và tuy mỗi tác phẩm nghệ thuật, mỗi đơn
vị sản phẩm như vậy, nhìn chung đều có giá trị tinh thần và giá trị này là chủ
yếu, song không phải vì thế mà giá trị vật chất của chúng là nhỏ bé, là không
quan trọng so với giá trị tinh thần. Giá trị vật chất của một cuốn tiểu thuyết
vĩ đại quả không đáng là bao so với giá trị tinh thần của nó, song giá trị vật
chất của một công trình kiến trúc nghệ thuật cỡ vừa phải (chứ chưa nói tới cỡ
vĩ đại) lại to lớn hơn nhiều và có tỷ lệ khác hẳn so với giá trị tinh thần của
nó, còn nếu so với giá trị vật chất của tác phẩm văn học vĩ đại kia thì vẫn lớn
gấp ngàn, gấp vạn lần. Một nhà thơ có thể viết nên những vần thơ tuyệt tác trên
một thứ giấy khá xấu, giấy đã viết một mặt, song với trường quay tồi, phim tồi,
xưởng in tráng tồi … thì thật khó làm nên nổi những bộ phim đẹp cho dù có đủ
các tài năng điện ảnh thực thụ. Chân lý là và luôn luôn là cụ thể. Đừng để cho
cái “nhìn riêng” lấn át cái “nhìn chung” mà xem thường cái “nhìn riêng” !
Do
vậy, ta hãy đừng vì tính tinh thần, giá trị tinh thần của tác phẩm nghệ thuật mà không quan tâm và chú trọng thích
đáng tới mặt vật chất, giá trị vật chất, yêu cầu và điều kiện vật chất trên tất
cả các khâu của toàn bộ quá trình sản xuất nghệ thuật, từ những tìm tòi, trăn
trở, nhào nặn, tưởng tượng trong đầu nghệ sĩ qua việc tìm kiếm các nguyên vật
liệu và phương tiện vật chất - kỹ thuật thích hợp cần thiết đến việc xây dựng
và hoàn thiện không ngừng kết cấu vật chất của tác phẩm và sau đó là sự thẩm
định cùng một lúc cả giá trị tinh thần lẫn giá trị vật chất để trên cơ sở đó mà
phán quyết giá cả, cách thức phân phối và sử dụng. Có như vậy xã hội mới có
nhiều giá trị nghệ thuật và nhu cầu nghệ thuật của nhân dân mới được
thoả mãn ngày càng tốt hơn.
Điều
cần đặc biệt quan tâm trong toàn bộ quá trình trên là lao động nghệ thuật của
người nghệ sĩ, vì nó là nhân tố quyết định và quán xuyến toàn bộ quá trình sản
xuất nghệ thuật.
Nếu
ở trên ta đã phải tính đến mối tương quan gắn bó giữa giá trị tinh thần với giá
trị vật chất ở mỗi tác phẩm thuộc mỗi loại hình, loại thể nghệ thuật cụ thể,
thì ở đây lại cần tính tới mối tương quan cũng gắn bó rất chặt chẽ giữa lao
động trí óc với lao động thể lực. Tỷ lệ giữa hai loại lao động này là khác nhau
trong quá trình sản xuất ra các tác phẩm cụ thể thuộc mỗi loại hình, loại thể
nghệ thuật cụ thể. Lao động thể lực của người nghệ sĩ hoạt động trên các loại
hình nghệ thuật, như trang trí - ứng dụng, điêu khắc, múa, v.v… lớn hơn đáng kể
so với ở các nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch bản sân khấu và điện ảnh, nhà soạn
nhạc, v.v… Song vô luận ở đâu, trong toàn bộ quá trình lao động sáng tạo nghệ
thuật, lao động trí óc đều không chỉ là nhất thiết, là quan trọng mà nhìn chung
còn là căng thẳng.
Điều
đáng lưu ý ở đây là không được vì tính chất nhẹ nhõm, thanh thoát, nhanh chóng,
bay bổng ở kết quả, ở sản phẩm, mà có thể nghĩ rằng toàn bộ quá trình lao động
nghệ thuật trước đó cũng đã diễn ra một cách nhẹ nhõm, nhanh chóng, chẳng vất
vả gì. Sự thật hoàn toàn ngược lại. Để có một bước nhảy ba lê bay bổng, nhẹ
nhàng, người diễn viên đã phải đổ mồ hôi trên sàn tập nhiều tháng, nhiều năm
ròng. Để có những câu thơ tươi ngọt, thanh thoát, những giai điệu réo rắt hay
du dương, nhà thơ, nhà soạn nhạc đã phải nhào đi, nặn lại chúng hàng chục, hàng
trăm lần trong đầu và trên giấy.
Không
thể nói lao động nghê thuật không phải là lao động nghề nghiệp, vì tính nghề
nghiệp, tính chuyên sâu cũng như kỹ năng, kỹ sảo, quá trình rèn luyện tay nghề,
v.v… đều là rất cần thiết đối với lĩnh vực lao động này. Nhưng điều quan trọng
cần nhấn mạnh ở đây là lao động nghệ thuật là một thứ lao động nghề nghiệp đặc
biệt. Bởi vì có biết bao nhiêu thứ nghề nghiệp trên đời mà nói chung bất cứ ai,
chỉ cần chịu học, chịu làm và cũng chỉ cần học dăm tháng, nửa năm hay một vài
năm là đều làm được tất. Ngay cả những nghề cần trình độ nghiệp vụ tương đối
cao mà từ xưa đến nay đều do ngành đại học trực tiếp đào tạo thì nhìn chung vẫn
là cứ có đào tạo thì ắt có chuyên gia. Trong khi đó ở các nghề làm nghệ thuật,
tình hình thường không được như vậy. Muốn làm nghề nghệ thuật, ngoài các điều
kiện này khác, nhất thiết phải có khiếu, có tài. Không có khiếu, có tài, thì
hiệu quả đào tạo sẽ rất thấp, người đi học sau khi đào tạo xong chỉ làm khổ
mình và làm khổ người khác, gây lãng phí xã hội. Không thể và cũng không nên
phủ nhận hay xem thường hoặc năng khiếu hoặc đào tạo, vì cả hai cái đó đều cần.
Chính vì vậy mà để thi vào các trường nghệ thuật, ngoài các môn khác, nhất
thiết phải thi môn năng khiếu.
Như
vậy, trong lao động nghệ thuật khác với vô số các nghề nghiệp khác, nhất thiết
phải có năng khiếu. Và trong quá trình rèn tập và hành nghề, năng khiếu phải
được bồi dưỡng không ngừng để thành tài năng. Không phải là không có căn cứ khi
người ta khẳng định rằng lao động nghệ thuật là lao động của tài năng nghệ
thuật. Và điều đáng nói ở đây là một khi đã là lao động của tài năng thì không
nên đối xử với nó theo kiểu tính đếm máy móc các khối lượng công việc và số
lượng nguyên vật liệu, số lượng chi phí vật chất. Bản thân những người trong
giới làm nghệ thuật đã thấm thía lắm với nỗi đau bất tài : hai bức tranh cùng
là sơn dầu có cùng kích thước, cùng chi phí vật chất như nhau, bức này nếu có
bán được cũng chỉ với giá một ngàn đồng, còn bức kia có thể bán hoặc mười ngàn,
hoặc thậm chí một trăm ngàn. Có thể kể ở đây hàng trăm, hàng ngàn ví dụ tương
tự. Cái “có giá” ở đây nói lên cái vô giá của nghệ thuật, của lao động nghệ
thuật, lao động của tài năng.
Nên
chăng tính lại việc định giá cho các tác phẩm nghệ thuật, chế độ nhuận bút,
thái độ đối xử với các tài năng ? Cần thấy rằng việc định giá cho các tác phẩm
nghệ thuật chẳng qua là một việc làm bất đắc dĩ do sự chi phối của quy luật
trao đổi hàng hoá, chứ không phải là biểu thị đáng tin cậy của bản thân giá trị
tác phẩm. Và một khi đã như vậy thì có lẽ phương thức tốt nhất, công bằng nhất
là phương thức giá thoả thuận giữa người bán - nghệ sĩ – tác giả với người mua,
vô luận là cơ quan Nhà nước hay cá nhân. Ở một nơi chưa biết thế nào là công
bằng xã hội thì thực hiện sự công bằng tâm lý là hợp lý nhất, bởi vì không
những nó không khoét sâu thêm những bất bình mà ngược lại còn khuyến khích được
các tài năng. Trong tình hình xã hội cụ thể hiện nay của chúng ta chuyện “thuận
mua vừa bán” càng có ý nghĩa thiết thực đối với các sáng tác của lao động nghệ
thuật.
Một
vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn được đặt ra ở đây là : để đối xử xứng đáng đối
với các tài năng thực sự, Nhà nước ta không thể bao cấp tràn lan cho tất cả mọi
người có tên trong biên chế các cơ quan nghệ thuật hiện nay, không thể tiếp tục
“nuôi” tồi tất cả mọi người cả có tài lẫn bất tài, vì như vậy là gây tổn thất
lớn cho lợi ích chính đáng của xã hội, do đó, phải tiến hành những biện pháp và
phương tiện cần thiết nhằm “nuôi” tốt, thật tốt các tài năng và để những ai không có khả năng làm nghệ thuật đi làm nghề
khác, vừa lợi mình, vừa ích nước. Rõ ràng là ở đây phải lấy hiệu quả xã hội của
tác phẩm làm thước đo, làm căn cứ quyết định mức đãi ngộ. Để thực hiện được
điều này, các cơ quan Nhà nước như nhà xuất bản, nhà hát, v.v… chẳng hạn, có
thể sẽ không làm cái việc trả nhuận bút đơn giản như lâu nay và trả xong là
xong mọi chuyện với tác giả, mặc dù mức nhuận bút rất thấp và chiếm một tỷ
lệ cũng rất thấp so với thu nhập do tác phẩm
đưa lại cho cơ quan. Điều này còn vô lý và bất công ở chỗ là : bắt các nghệ sĩ
tài năng phải nuôi xã hội, nuôi cơ quan Nhà nước bằng thu nhập vật chất, mà
thật ra chỉ một cống hiến và đóng góp về mặt tinh thần của họ đối với xã hội đã
là quý lắm rồi. Cũng sẽ là vô lý và bất công nếu bắt người nghệ sĩ tài năng
phải nuôi những con người bất tài, trong khi bản thân mức sống vật chất
của các tài năng hãy còn rất thấp.
Nhất
thiết phải chống chủ nghĩa quân bình trong lĩnh vực sản xuất tinh thần. Chủ
nghĩa bình quân và chế độ bao cấp lâu nay đã hầu như xoá bỏ mất yếu tố khuyến
khích vật chất để chỉ còn lại những lời kêu gọi tinh thần, nếu không muốn nói,
nhiều khi là hô hào suông đối với thứ lao động đặc biệt và cao cấp này. Chừng
nào chưa có chủ nghĩa cộng sản, chừng đó người có tài chưa được đãi ngộ tương
xứng với cống hiến quý giá của họ. Đó là công bằng xã hội và cũng là một tất
yếu lịch sử phải trải qua trước khi tiến đến chỗ mọi người đều đầy đủ và sung
sướng, đều “hưởng theo nhu cầu”.
Thái độ phân biệt đối xử rõ ràng và gay gắt nói trên
không được vận dụng vào mối quan hệ giữa văn nghệ chuyên nghiệp với văn nghệ
quần chúng.
Văn
nghệ quần chúng là văn nghệ của những người không và chưa phải là nghệ sĩ
chuyên nghiệp, nên không được áp dụng với nó những điều kiện và đòi hỏi của văn
nghệ chuyên nghiệp và bản thân những người làm nghệ thuật ở đây không sống bằng
nghề làm nghệ thuật nên cũng không có những đòi hỏi như của nghệ sĩ chuyên
nghiệp.
Nhìn
chung, văn nghệ quần chúng thường không có được trình độ nghệ thuật cao như văn nghệ chuyên nghiệp, song
hoàn toàn không được vì vậy mà xem thường văn nghệ quần chúng. Nó có một tầm
quan trọng đặc biệt, xuất phát từ vai trò không gì thay thế được của nó. Đó là
vai trò cơ sở, nền tảng của nó đối với văn nghệ chuyên nghiệp và vai trò tự rèn
luyện, thử thách, tự làm đẹp mình của đông đảo thành viên xã hội, cũng
tức là làm đẹp xã hội.
Đối
với văn nghệ chuyên nghiệp, văn nghệ quần chúng luôn luôn là nền tảng. Nền tảng
này càng rộng lớn và vững chắc bao nhiêu, các đỉnh cao của văn nghệ chuyên
nghiệp càng cao và số lượng, chất lượng của các đỉnh cao đó càng nhiều, càng
vững bấy nhiêu. Văn nghệ quần chúng xét trên một mặt nhất định có thể vì như
một bước “sơ chế” rất quan trọng. Đó là nguồn tài nguyên nghệ thuật vô cùng
phong phú nằm trong bản thân đời sống hiện thực của quần chúng đông đảo của
nhân dân, của đời sống dân tộc. Trên cơ sở sơ chế này, các nghệ sĩ chuyên
nghiệp “tái chế”, nâng cao chất lượng mọi mặt của tác phẩm nghệ thuật, làm nên
các đỉnh cao tuyệt tác. Không có một nghệ sĩ thực sự vĩ đại nào của dân tộc mà
lại không được nuôi dưỡng bằng nguồn văn nghệ này của nhân dân và không vươn
lên trên cơ sở khai thác triệt để nguồn tài nguyên hết sức phong phú này. Xa
rời văn nghệ quần chúng, văn nghệ chuyên nghiệp tự tách mình khỏi nguồn sữa
trực tiếp của mình.
Không
nên hiểu một cách máy móc rằng bất cứ tác phẩm nào, tác giả nào của văn nghệ quần chúng đều yếu kém so với văn
nghệ chuyên nghiệp. Cũng không nên hiểu giản đơn một chiều rằng người nghệ sĩ
chuyên nghiệp chỉ có trách nhiệm giúp đỡ phong trào văn nghệ quần chúng, mà
không hề tính tới việc học tập và gặt hái tất cả những gì cần thiết cho mình từ
phong trào đó.
Lịch
sử các nền văn nghệ dân tộc của nhiều nước khác nhau trên thế giới đều đã chứng
minh hùng hồn chân lý : đỉnh cao, đỉnh bền được là nhờ có nền rộng, nền vững !
Vậy nên nhất nhất không được vì mức hoàn thiện, hoàn mỹ chưa cao lắm mà có thể
đánh giá thấp tầm quan trọng của văn nghệ quần chúng đối với sự nghiệp xây dựng
và phát triển không ngừng nền văn nghệ dân tộc xã hội chủ nghĩa ngày nay của
chúng ta.
Đối
với xã hội, đối với đông đảo thành viên xã hội, văn nghệ quần chúng có một tác
dụng hết sức to lớn và không gì thay thế được. Cần thấy rõ và nói thẳng ra rằng
không một nền văn nghệ chuyên nghiệp nào có thể thoả mãn nổi nhu cầu nghệ thuật
vô cùng to lớn của đông đảo nhân dân trên khắp mọi miền đất nước và trong mọi
thời điểm, mùa vụ của mỗi năm. Không thể nói được rằng văn nghệ chuyên nghiệp
chỉ như một người khách, khách đến rồi khách lại đi, vì có biết bao nhiêu thứ
như sách, báo, đài, tranh tượng, ca khúc, …
chuyên nghiệp hoàn toàn có thể “ở lại” lâu dài chứ không ra đi theo bước chân
người nghệ sĩ chuyên nghiệp. Song dẫu sao nhìn chung văn nghệ chuyên nghiệp vẫn
cứ không phải là “cây nhà lá vườn”, không ăn đời ở kiếp để chia sẻ mọi nỗi niềm
tâm tư, mọi tình, mọi cảnh với mỗi người dân, mỗi nhóm cư dân, nhất là ở những
địa bàn xa thành phố, những nơi đèo cao, suối sâu, v.v… Văn nghệ quần chúng
phải tự sản, tự tiêu. Nhân đây cần nhấn mạnh rằng việc gây dựng các
phong trào văn nghệ quần chúng ở mỗi địa phương nhất thiết phải làm tốt được
chức năng tự sản, tự tiêu này, nếu không thì không một yếu tố nào từ bên ngoài
vào hay từ bên trên xuống có thể nuôi dưỡng nổi phong trào, chứ chưa nói tới
phát triển phong trào ngày càng cao hơn.
Có
một ý nghĩa rất quan trọng của văn nghệ quần chúng mà văn nghệ chuyên nghiệp dù
hay dù đẹp và có những điều kiện thuận lợi đến mấy cũng không thể thay thế được
văn nghệ quần chúng – đáng tiếc là ý nghĩa này ít được nói tới hoặc nói tới
chưa thích đáng – đó là văn nghệ quần chúng chính là trường tự rèn luyện, thử
thách của mỗi người và mọi người trên con đường tất yếu và bắt buộc của sự phát
triển nhân cách đẹp, trên con đường vươn tới và đến với cái đẹp. Hoạt động văn
nghệ quần chúng không chỉ là hoạt động
tự sản xuất ra các tác phẩm văn nghệ để thoả mãn nhu cầu văn nghệ của bản
thân quần chúng. Nó đồng thời còn là một hoạt động mà ở đấy mỗi người tham gia
đều được tự thử thách mình, tự rèn luyện mình để làm đẹp mình : từ cách ăn mặc,
hoá trang, qua dáng đi điệu đứng đến lời ăn tiếng nói và cách ứng xử, v.v… Có
thể nói ngay được rằng ở đất nước nào văn nghệ quần chúng không phát triển rộng
khắp và được nuôi dưỡng thường xuyên cần thiết, ở đất nước đó không thể giáo
dục thẩm mỹ tốt, rộng và sâu, do đó, không thể có được kết quả mong muốn trong
sự nghiệp xây dựng và giáo dục những nhân cách đẹp, những con người đẹp biết sống
đẹp với mình và với người. Việc chúng ta dễ dàng nhận ra những vụng về và thiếu
sót ở một bài thơ hay ngăn cản việc chúng ta nghĩ tới những khó khăn, vất vả,
những dằn vặt và trăn trở trong quá trình tự thanh lọc trong tâm hồn và tự hoàn
thiện mình trên nhiều mặt để làm nên bài thơ đó, vở kịch đó.
Văn
nghệ quần chúng là trường hoạt động tuyệt vời của tự nhận thức và giáo dục, tự
thanh lọc và hoàn thiện của mỗi cá nhân thành viên xã hội. Chính vì vậy, trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội nó có một
vai trò và tác dụng vô song và vô địch đối với nhiệm vụ nâng cao không ngừng
trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân, như Đại
hội VI đã vạch ra. Và cũng chính vì vậy phong trào văn nghệ quần chúng phải
được xây dựng và phát triển chủ yếu bằng những sức mạnh bên trong, những nhân
tố “sở tại”, những gì được đưa từ ngoài vào hay từ trên xuống có tầm quan trọng
và tác dụng đặc biệt của nó, nhưng nó không đủ, nó phải được kết hợp với cái
“sở tại” mới tạo nên một bề sâu thích đáng cần thiết của một đời sống văn nghệ.
Cùng
với việc xây dựng và phát triển không ngừng nền văn nghệ dân tộc xã hội chủ
nghĩa, chúng ta còn phải tiến hành đồng thời cả việc đấu tranh chống lại mọi
biểu hiện khác nhau của các thứ văn nghệ phản động và lạc hậu của các giai cấp
và lực lượng xã hội thù địch. Điều này là tất yếu và hiển nhiên, không có gì
phải bàn nhiều. Lâu nay chúng ta đã làm tốt việc này và cần tiếp tục.
Điều
đáng lưu ý và đòi hỏi một sự quan tâm nghiên cứu và giải quyết thích đáng là,
một mặt, chúng ta phải thường xuyên tiếp thụ, đón nhận và sử dụng tốt các nguồn
văn nghệ của thế giới, xưa và nay, mặt khác phải đổi mới, phải bổ sung, hoàn
thiện và nâng cao mọi mặt nền văn nghệ dân tộc của chúng ta để không chỉ theo
kịp mà là góp phần tích cực nhất vào quá trình đổi mới và phát triển của xã hội
ta.
Có
thể khẳng định ngay là cả hai mặt, hai việc đó – đón nhận, sử dụng nguồn văn
nghệ nước ngoài và đổi mới, hoàn thiện văn nghệ dân tộc - đều là tất yếu, là
quy luật. Vấn đề chỉ là ở chỗ tiến hành hai việc đó như thế nào cho có lợi
nhất. Thái độ thận trọng, có suy tính và cân nhắc là cần thiết, song không thể
để nó trở thành một cái gì có thể làm trở ngại công việc của chúng ta. Việc làm
thử, thể nghiệm và thăm dò dư luận cũng rất cần thiết và cần được giúp đỡ và
thông cảm. Không phải mọi tìm tòi đều dẫn tới thành công và khó có cái mới nào
được dễ dàng chấp nhận ngay.
Việc
đón nhận và sử dụng - tất nhiên là có chọn lọc – các nguồn văn nghệ nước ngoài
không chỉ góp phần thoả mãn nhu cầu nghệ thuật của công chúng, mà còn tạo ra
những gợi ý thực tế để chúng ta suy nghĩ và sáng tạo. Văn học Xô-viết với sự
phản ánh những vấn đề gay cấn của xã hội Xô-viết ; nhạc “rốc”, nhạc “pốp”, các
loại ca khúc “mở” … mới hồi nào bị cả một bộ phận lớn của thế giới coi là một
cái gì rất đỗi xa lạ, thậm chí là quái đản, giờ đây đã có “thị trường tiêu thụ”
có thể nói là toàn cầu ; những gì làm cho An-la Pu-ga-chô-va trước đây bị coi
là “đứa con bất trị” đã đưa lại cho nữ ca sĩ này danh hiệu cao quý “nghệ sĩ nhân dân” của Cộng hoà liên bang Nga ; sự đổi
mới về nhiều mặt của sân khấu một loạt nước xã hội chủ nghĩa, kể cả Liên Xô, trong
thời gian gần đây ; việc tìm kiếm và khẳng định các “mũi nhọn”, các nét độc đáo
riêng trong từng loại hình, loại thể nghệ thuật ở nước này, nước khác, cũng như
trong phong cách và “cách làm ăn” của mỗi cơ quan nghệ thuật, mỗi đoàn, mỗi nhóm và của mỗi cá nhân nghệ sĩ, v.v… -
tất cả những cái đó và những cái tương tự như vậy không thể không làm chúng ta
suy nghĩ.
Đúng
là phương hướng chung ở đây phải là sáng tạo và đổi mới trên cơ sở truyền thống
dân tộc, trên cơ sở phát huy bản sắc dân tộc, trên cơ sở tính liệu đầy đủ nhu
cầu và thị hiếu của công chúng dân tộc. Và đã có không ít ví dụ nói lên thành
công của chúng ta theo phương hướng đó. Song cũng rõ ràng là văn nghệ của chúng
ta hiện nay chưa đáp ứng được mong mỏi của công chúng, chưa nâng mình lên tới
mức cần thiết của yêu cầu khách quan từ phía xã hội. Phải chăng có thể nói rằng
văn nghệ của ta có quá ít những đỉnh cao, những tác phẩm có sức lay động lớn.
Nhìn vào sân khấu, chẳng hạn, các thành công của Lưu Quang Vũ không ít, những
vở tốt kiểu như “Người mất tích” không ít, song thật không dễ gì tìm ra nổi “kẻ
tình địch” của “Bài ca giữ nước”. Tào Mạt đã thực sự tạo ra được đỉnh cao, một
đỉnh cao đủ để đông đảo công chúng yêu quý và kính phục anh.
Song
nếu nhìn vào các ngành nghệ thuật khác, không phải ngành nào cũng có một quang
cảnh đáng khích lệ và đủ cả nền lẫn đỉnh như vậy. Lấy ngay một ngành được lịch
sử thừa nhận là “đàn anh” : văn học, chẳng hạn. Dễ dàng thấy rằng trong những
năm vừa qua, người có đóng góp nhất là Nguyễn Khải và anh xứng đáng chiếm một
vị trí xứng đáng ở hàng chiếu cao của làng văn ta. Song chắc bản thân anh cũng
không dễ gì gọi ra được một đỉnh cao trong số các tác phẩm của mình cũng như
của các bạn đồng nghiệp. “Đứng trước biển” của Nguyễn Mạnh Tuấn, “Thời xa vắng”
của Lê Lựu, “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng cùng một số tác phẩm khác
đều đã gây nên được một sự chú ý sôi nổi trong một số cộng đồng người. Song vẫn
chưa tỏ là những đỉnh cao và có vị trí sâu sắc và lâu dài … Quang cảnh của nghệ
thuật âm nhạc với sự nổi trôi tương đối của ca khúc cũng đại thể ở mức “thường
thường bậc trung”. Điện ảnh ta, xét trên những mặt nhất định nào đó, cũng có
thể nói là trưởng thành tương đối nhanh, thế nhưng hai món nợ lớn mà hàng
triệu, hàng triệu khán giả trong nước và ngoài nước đòi một cách chính đáng ở
nó, nó vẫn chỉ cứ trả dần một cách dè sẻn. Đó là những bức tranh toàn cảnh lớn
về sự nghiệp kháng chiến và công cuộc xây dựng trên đất nước ta mấy chục năm
qua, v.v… và v.v…
Rõ
ràng phải đổi mới, đổi mới toàn diện và sâu sắc trong văn nghệ ta. Và đổi mới
như vậy, ấy là tiếp tục tồn tại và phát triển.
Không
có những lá đơn, những bài thuốc chung về đổi mới cho mỗi và mọi người làm công
tác văn nghệ, cả nghệ sĩ lẫn người quản lý. Phải tự mỗi người, trên chỗ đứng cụ
thể và với nhiệm vụ cụ thể của mình, suy nghĩ, tìm kiếm, trao đổi, bàn bạc mà
tìm ra những giải pháp cụ thể cho sự đổi mới cụ thể của mình và ngang mình. Tuy
nhiên, nhìn toàn cục và không nhắc lại những gì đã được nói ở các phần trên,
chúng ta có thể nêu ra ở đây một số điều cần thiết chung.
Một,
đổi mới đội ngũ văn nghệ sĩ theo hướng tận dụng, khai thác triệt để và đầu tư
giúp đỡ có trọng điểm và có hiệu qủa cho những ai thực sự có tài năng và điều
kiện sáng tạo nghệ thuật, kiên quyết bằng mọi cách loại dần ra khỏi đội ngũ này
những ai qua thử thách đã chứng tỏ bất tài. Thường xuyên tổ chức, chính thức và
không chính thức, thường kỳ và không thường kỳ, các hình thức thi đua khác nhau
để cùng sàng lọc và phân loại các thành viên, trên cơ sở đó tiến hành một sự phân biệt đối xử thật rõ ràng, minh bạch, công
khai : ai tài cao và cống hiến nhiều, hưởng nhiều ; ai tài thấp, cống hiến ít,
hưởng ít ; ai bất tài, không có đóng góp gì, xin mời đi làm việc khác, nghề
khác.
Hai,
đổi mới đội ngũ những cán bộ phụ trách có trách nhiệm chính thức trong việc
đánh giá và quyết định cách thức sử dụng các tác phẩm và các tài năng nghệ
thuật. Thành lập cho mỗi loại hình, loại thể nghệ thuật một Hội đồng gồm những
thành viên có đầy đủ các điều kiện về năng lực và phẩm chất của tư cách đánh
giá chính thức, tư cách đại diện cho nhân dân và thay mặt cho Đảng và Nhà nước
ta trong việc thẩm định chính thức giá trị tác phẩm và quyết định cách thức sử
dụng nó. Do chỗ Hội đồng này đã có đủ tư cách chính thức như vậy và phải chịu
hoàn toàn trách nhiệm về các quyết định của mình trước Đảng, trước dân, nên
không một cán bộ Đảng hay cán bộ chính quyền nào được quyền can thiệp vào công
việc này, trừ quyền khiếu nại về Hội đồng này. Đặc biệt chú trọng việc đổi mới
theo hướng trên, đội ngũ những người phải làm công việc đánh giá này ở các nhà
xuất bản, tiến tới chấm dứt tình trạng kẻ dốt dạy người khôn, trò quyết định số
phận công trình của thày, kẻ vô trách nhiệm hành hạ người có trách nhiệm, kẻ
giáo điều chặn bước người sáng tạo, … làm sao để mỗi văn nghệ sĩ tác giả, mỗi
người lao động sáng tạo đến với nhà xuất bản không chỉ như đến với một khâu
kiếm sống bất đắc dĩ, mà như đến với những người thực sự thay mặt Đảng, thay
mặt dân sẵn sàng giúp đỡ và giúp đỡ có hiệu quả thật sự cho công việc sáng tạo
của mình vì lợi ích của sự nghiệp cách mạng.
Ba,
đổi mới đội ngũ cán bộ quản lý và lãnh đạo văn nghệ. Các cấp uỷ đảng và các cấp
chính quyền ở tất cả các cấp cần thấy rằng văn nghệ là một lĩnh vực nghề nghiệp
có đặc thù riêng và hết sức tinh vi, là một sự nghiệp hết sức khó khăn và có
một tầm quan trọng nhất định, không thể thiếu được đối với cách mạng, đối với
đời sống xã hội, nên không thể phân công cho bất kỳ ai phụ trách cũng được,
miễn là người đó “có phẩm chất”. Ở đây nguyên một phẩm chất thì chưa đủ và dứt
khoát không được, mà nhất thiết phải am hiểu nghề nghiệp, phải yêu quý văn nghệ
sĩ và biết cách tiếp cận, giúp đỡ, tổ chức văn nghệ sĩ. Trong cơ cấu cấp uỷ,
trong tổ chức chính quyền, nhất thiết phải có người đủ điều kiện cần thiết để
quản lý và lãnh đạo tốt lĩnh vực tế nhị và khó khăn này. Tiến hành kiểm tra lại
trình độ nghiệp vụ cần thiết đối với công tác lãnh đạo và quản lý văn nghệ,
trên cơ sở này mà loại dần những người không có năng lực và bồi dưỡng thêm cho
những người còn được giữ lại để tiếp tục công tác với chất lượng tốt hơn.
Bốn,
xoá bỏ tính chất bình quân trong chính sách đãi ngộ đối với văn nghệ sĩ, thực
hiện bằng được yêu cầu của Đảng ta đã được nêu lên ở Đại hội VI : “Cải tiến
chính sách đối với người làm công tác nghệ thuật chuyên nghiệp, đãi ngộ xứng
đáng lao động nghệ thuật, động viên sáng tác, khuyến khích tài năng”. Ở đây,
vấn đề chủ yếu là cách nhìn, chứ không hẳn là do “cái khó bó cái khôn”. Một
chánh phó phòng nào đó, nhất là một chánh phó chủ tịch quận nào đó có thể sống
như ông hoàng với đầy đủ các tiện nghi, trong khi đó các tài năng sáng tạo nghệ
thuật và khoa học phải sống thiếu thốn, khổ cực ! Thu nhập hàng tháng của những
người lao động chân tay có chút ít tay nghề hiện nay gấp năm, gấp mười thu nhập
của các nghệ sĩ nổi tiếng, các giáo sư, tiến sĩ ! Cần thấy rõ ràng nỗi đau do
bất công xã hội ở người có đầu óc bao giờ cũng đau gấp năm, gấp mười lần hơn ở
những người “không có đầu óc”.
Năm,
khuyến khích mọi tìm tòi và cổ vũ mọi đổi mới về mọi mặt trong sáng tạo nghệ
thuật, về nội dung và hình thức, về thể loại và phong cách, về bút pháp và cách
thể hiện, về ngôn ngữ và phương tiện kỹ thuật, v.v… Yêu cầu chung ở đây là :
tạo ra được những tác phẩm nghệ thuật có nội dung tư tưởng nằm trong quỹ đạo
chung của văn nghệ xã hội chủ nghĩa, có độ hay và sức hấp dẫn càng lớn càng
tốt. Xoá bỏ mọi thứ trở ngại giả tạo, kiểu khuôn sự nhận xét vào trong các công
thức như “chỉ được phê phán tới cấp tỉnh bên dân sự và cấp tá bên quân sự” chứ
không được đụng tới cấp cao hơn ; trong mỗi tác phẩm phải có quãng “7 phần ca
ngợi và 3 phần phê phán” ; kiểu vẽ này, giai điệu nọ … là lấy từ hay bắt chước
chỗ nọ, nước kia, tác giả là người có quá khứ thế này, sinh hoạt thế nọ, v.v…
Căn cứ cần và đủ để xét định một tác phẩm nghệ thuật là và chỉ là bản thân tác
phẩm đó với tất cả những yếu tố hợp thành và làm nên nó. Lý lịch của tác giả là
vô can ở đây. Mỗi thể nghiệm thành công phải được ủng hộ và khuyến khích cả về
tinh thần lẫn vật chất. Tác phẩm hay mười được trả mười, tác phẩm hay năm được
trả năm. Tác phẩm cực hay được nhận giải thưởng lớn.
Nói
tóm lại, mỗi người, mỗi tập thể, mỗi cơ quan, mỗi tổ chức, mỗi ngành trên toàn
lĩnh vực văn nghệ đều có trách nhiệm thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ và yêu cầu Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề
ra, mà điều cốt lõi là đổi mới mọi mặt, mọi khâu của toàn bộ sinh hoạt văn
nghệ, giải phóng và thúc đẩy mọi tiềm năng sáng tạo nghệ thuật nhằm xây dựng và
phát triển thật tốt nền văn nghệ dân tộc xã hội chủ nghĩa của chúng ta với chất
lượng ngày càng cao và do đó, có hiệu quả tác động ngày càng lớn vào quá
trình đổi mới và phát triển của đời sống xã hội chúng ta trên con đường tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Chương
V
Về Đảng lãnh đạo và nâng cao trình độ
lãnh đạo
Trong
thời đại cách mạng vô sản, văn hoá, văn nghệ phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản. Đó là một tất yếu lịch sử. Điều này xuất phát từ những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp,
văn hoá, văn nghệ phải có tính giai cấp. Giai cấp nào thống trị về chính trị
tất nhiên thống trị cả về ý thức tư tưởng, về văn hoá, văn nghệ.
Đảng
cộng sản, đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo toàn dân đấu tranh lật đổ quyền
thống trị của phong kiến, thực dân, đồng thời phải lật đổ cả quyền thống trị về
văn hoá, văn nghệ, phải đấu tranh chống lại và xoá bỏ thứ văn hoá văn nghệ của
giai cấp thống trị.
Do
văn hoá, văn nghệ có tính giai cấp, nên văn hoá, văn nghệ bao giờ cũng tuân
theo chính trị của một giai cấp nhất định. Trong xã hội có đấu tranh giai cấp,
không có thứ văn hoá, văn nghệ siêu giai cấp và phi chính trị. Nó không phụ
thuộc vào chính trị của giai cấp khác. Nó biểu hiện tư tưởng và quan điểm của
một giai cấp nhất định, nó (có ý thức hay vô ý thức) phục vụ cho chính trị của
giai cấp này hay giai cấp khác. Dù có những tác phẩm đạt trình độ nghệ thuật
cao, có tính toàn nhân loại tồn tại lâu dài trong lịch sử, nhưng trong buổi đầu
khi nó ra đời, nó cũng đã phù hợp với lợi ích và chính trị của một giai cấp.
Các
giai cấp thống trị phong kiến và tư sản thường che giấu tính giai cấp của văn
hoá, văn nghệ để lừa bịp nhân dân. Ngược lại học thuyết Mác – Lê-nin nêu rõ
tính giai cấp của văn hoá, văn nghệ và khẳng định nó bằng yêu cầu tính Đảng đối
với văn học, nghệ thuật.
Văn
nghệ phải phục tùng chính trị của giai cấp, Đảng của giai cấp công nhân là
người vạch ra phương hướng chính trị cho văn nghệ. Đảng không lãnh đạo văn nghệ
thì văn nghệ không có phương hướng chính trị. Đó là một nguyên lý, Đảng ta,
trong lịch sử lãnh đạo cách mạng đã vạch ra đường lối dân tộc dân chủ cho cách
mạng Việt Nam
và sau đó trong sự nghiệp chống đế quốc Mỹ, Đảng đã nêu cao chiến lược hai ngọn
cờ : ngọn cờ dân tộc độc lập và ngọn cờ chủ nghĩa xã hội. Đó chính là cơ sở để
cho Đảng định ra nguyên tắc Dân tộc – Khoa học - Đại chúng trong việc xây dựng
một nền văn hoá, văn nghệ dân chủ nhân dân. Đó chính là nội dung Đề cương văn
hoá 1943 của Đảng. Sau này Đảng lại xác định xây dựng một nền văn hoá, văn nghệ
có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Trong quá trình chiến đấu
chống xâm lược, giành độc lập, Đảng ta đã coi văn nghệ là một công cụ tư tưởng
có sức mạnh lớn. Hồ Chủ tịch đã chỉ ra “văn hoá, văn nghệ cũng là mặt trận và
các nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó”.
Văn
nghệ nước ta đã đi theo phương hướng đó mà phát triển và có những thành tựu to
lớn, được coi như một nền văn nghệ đứng vào hàng ngũ tiên phong của văn nghệ
chống đế quốc trên thế giới.
Lịch
sử đã xác định rõ rệt nguyên lý : văn nghệ chỉ có thể phát triển dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
*
* *
Nhưng
như thế, không có nghĩa là Đảng lãnh đạo văn nghệ là chỉ lãnh đạo về chính trị.
Đảng lãnh đạo văn hoá, văn nghệ là lãnh đạo toàn diện : lãnh đạo về chính trị,
tư tưởng, lãnh đạo về nghệ thuật và lãnh đạo về tổ chức.
Đảng
quan tâm rất nhiều đến việc trang bị thế giới quan Mác-xít cho các nghệ sĩ sáng
tác, yêu cầu các nghệ sĩ nắm vững phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ
nghĩa, giúp các nghệ sĩ tránh những xu hướng nghệ thuật phản động, đồi truỵ,
không lành mạnh. Đảng thu hút các văn nghệ sĩ đứng vào hàng ngũ của Đảng ngày
càng đông, giúp các văn nghệ sĩ tổ chức các đoàn thể xã hội mang tính nghề
nghiệp của mình để đoàn kết các nghệ sĩ và phát huy sức mạnh sáng tạo của các
nghệ sĩ. Đảng định ra những phương hướng, nguyên tắc và các chế độ chính sách
để bảo đảm các hoạt động sáng tạo của văn nghệ. Tư tưởng của Đảng là yêu cầu
tác phẩm nghệ thuật phải tốt về nội dung tư tưởng và hay về nghệ thuật. Câu nói
tiêu biểu của đồng chí Phạm Văn Đồng là “Tác phẩm phải đạt yêu cầu 100 % về nội
dung và 100 % về hình thức. Đã là nghệ thuật thì phải hay !”.
Đảng
thực hiện sự lãnh đạo toàn diện, nhưng Đảng luôn nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng
phải phù hợp với đặc thù của văn hoá, văn nghệ, không thực hiện sự lãnh đạo của
mình giống hệt sự lãnh đạo các lĩnh vực khác, không san bằng văn nghệ với các
lĩnh vực khác. Văn nghệ không có sự lãnh đạo của Đảng là thứ văn nghệ phi giai
cấp, phi chính trị, rút cục là thứ văn nghệ có lợi cho những thứ kẻ thù của
cách mạng, của dân tộc, không có lợi gì hoặc chống lại lợi ích của cách mạng,
của nhân dân, của dân tộc.
Đảng
không thực hiện sự lãnh đạo của mình hoặc không quan tâm lãnh đạo hoặc không
biết cách lãnh đạo, hoặc lãnh đạo theo những phương pháp sai trái, không phù
hợp với đặc thù văn nghệ không những không làm cho văn nghệ phát triển tốt mà
còn làm trở ngại khó khăn cho sự sáng tạo trong văn nghệ, làm cho văn nghệ trở
nên khô cằn, nghèo nàn, không làm được chức năng và sứ mệnh cao cả của mình đối
với lịch sử, với nhân dân. Và như vậy Đảng cũng không làm tròn nhiệm vụ lãnh
đạo cách mạng, lãnh đạo xây dựng xã hội. Do đó cần phải thấu suốt nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ.
*
* *
Nội
dung và phương thức lãnh đạo văn nghệ của Đảng thể hiện ở các điểm như sau :
1)
Đảng luôn nhận định về vai trò, vị trí của văn hoá, văn nghệ trong sinh hoạt
của xã hội, coi đó là lĩnh vực cực kỳ quan trọng, là một lĩnh vực có khả năng
giáo dục xây dựng con người mới về tư tưởng, tình cảm không gì thay thế được,
là một lĩnh vực tình cảm, có nhiều đặc thù trong lao động sáng tạo, một lĩnh
vực hết sức phức tạp.
Những
nhận định này phải được thể hiện ở mức độ quan tâm và trách nhiệm của các tổ
chức Đảng, ở thái độ của các tổ chức Đảng đối với hoạt động văn hoá, văn nghệ
và đối với các văn nghệ sĩ, ở chỗ xác định mối quan hệ giữa văn nghệ và chính
trị. Đảng xác định văn nghệ phải phục tùng chính trị, phục tùng chính trị là
phục tùng đường lối chính trị của Đảng chứ không phải phục tùng và phục vụ
những nhiệm vụ công tác hàng ngày, càng không phải là phục tùng và phục vụ cá
nhân làm chính trị (xem Trường Chinh, Về văn hoá nghệ thuật, Nxb Văn học, Tập
I, tr.217).
2)
Đảng nhấn mạnh đặc thù của văn nghệ. Đó là đặc thù của lao động sáng tạo, đặc
thù của các tác phẩm nghệ thuật trong sự biểu hiện và tồn tại của nó, trong sự
tác động của nó đối với con người, đối với công chúng. Lao động sáng tạo là một
lao động có nhiều điều bí ẩn và kỳ diệu, không thể coi nó giống như bất cứ một
quy trình sản xuất của cải vật chất nào khác. Người sáng tạo phải là người có
tài năng. Phải coi trọng tài năng và cá tính của tài năng. Phải thấy tài năng
là của hiếm và tài năng là của nhân dân. Đảng trân trọng và bồi dưỡng phát huy
tài năng của nghệ sĩ là vì lợi ích của nhân dân chứ không phải vì bản thân
người nghệ sĩ. Tài năng cần được phát triển trong cuộc sống, không phải chỉ có
kỹ năng, kỹ xảo. Đảng luôn khuyến khích văn nghệ sĩ đi vào cuộc sống, sống cuộc
sống chiến đấu và lao động sáng tạo. Đó là một mặt bồi dưỡng tài năng rất chính
đáng và có hiệu quả. Vì cuộc sống đẹp sẽ làm cho tâm hồn nghệ sĩ cao đẹp và do
đó mới phát triển tài năng một cách tốt đẹp.
3)
Đảng lãnh đạo văn hoá, văn nghệ không phải là hạn chế văn nghệ, hạn chế sáng
tạo, gò bó sáng tạo, mà là làm cho văn nghệ được tự do sáng tạo, được phát
triển mạnh mẽ, được nâng cao chất lượng, trình độ và nâng cao tác dụng đối với
xã hội. Đảng luôn luôn chủ trương khuyến khích tự do sáng tạo, khuyến khích sự
tìm tòi tạo nên nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau và phong phú. Đảng luôn
giúp các nghệ sĩ tránh được những sai lầm có hại cho sự sáng tạo.
Nếu
các nghệ sĩ được trang bị một cách đầy đủ và sâu sắc thế giới quan Mác-xít là
thế giới quan khoa học nhất thì bản thân người nghệ sĩ sẽ thấy được tự do phóng
khoáng trong sáng tạo, được giải thoát khỏi những ràng buộc dung tục và thấp
hèn, bởi vì tự do là “tất yếu được nhận thức”. Đảng lãnh đạo không hề mâu thuẫn
và hạn chế tự do sáng tạo.
4)
Đảng chủ trương xây dựng một nền văn hoá mới bằng cách tích luỹ cho xã hội toàn
bộ giá trị văn hoá quá khứ của loài người và của dân tộc, đồng thời sáng tạo
những giá trị tinh thần mới trên cơ sở kế thừa và phát triển những giá trị cổ
truyền. Văn hoá, văn nghệ có tính dân tộc không phải là văn hoá, văn nghệ khép
kín trong những hoạt động sáng tạo của bản thân dân tộc mình, không phải là bảo
thủ, chỉ có đề cao các giá trị cổ truyền.
Đảng
luôn đặt tính dân tộc trong mối quan hệ với tính thời đại, với tính quốc tế,
trong điều kiện cách mạng thế giới hiện nay.
5)
Đảng coi xây dựng nền văn hoá mới vừa là bảo tồn những giá trị cổ truyền phù
hợp với thời đại, vừa là tạo nên những giá trị mới để xây dựng một đời sống
tinh thần lành mạnh, cao cả trong nhân dân, bao gồm cả nhu cầu hưởng thụ và nhu
cầu sáng tạo.
Việc
thoả mãn các nhu cầu văn hoá nằm ngay trong việc thoả mãn các nhu cầu vật chất,
nằm ngay trong các kế hoạch phát triển sản xuất, phát triển kinh tế. Cho nên
xây dựng nền văn hoá mới phải bao gồm toàn bộ các hoạt động hướng cuộc sống con
người luôn vươn tới cái thật, cái thiện và cái đẹp. Đó là trách nhiệm của tất
cả các cấp, các ngành, của tất cả mọi người chứ không phải chỉ là một số công
tác và hoạt động văn hoá. Do đó phải phát triển văn hoá có chương trình và có
kế hoạch.
*
* *
Từ
những điểm trên, ta có thể thấy phương thức lãnh đạo văn hoá, văn nghệ của Đảng
có những đặc điểm như sau :
1)
Đảng khuyến khích sự sáng tạo cho nên có những chủ trương, chính sách cụ thể để
khuyến khích sáng tạo như các giải thưởng, các cuộc thi, v.v… và luôn luôn có
thái độ khoan dung với những phát hiện mới mẻ, đồng thời hết sức nghiêm túc,
ngăn chặn sự xuất hiện những yếu tố độc hại, nhảm nhí trong văn hoá, văn nghệ.
2)
Đảng hết sức coi trọng tài năng, ân cần và trân trọng những nghệ sĩ tài năng.
Sở dĩ như vậy là vì Đảng ta luôn luôn ý thức rằng chỉ có thể xây dựng được một
nền văn nghệ cách mạng với một đội ngũ đông đảo văn nghệ sĩ cách mạng. Sự trân
trọng của Đảng ta đối với những người hoạt động trên mặt trận văn nghệ, tình
cảm ưu ái bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thái độ gần gũi ân cần và tiếp xúc
cởi mở của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đối với cả đội ngũ cũng như
từng cá nhân văn nghệ sĩ, đặc biệt là đối với những văn nghệ sĩ có tài năng,
sống hết lòng với cách mạng và nhân dân, sự trận trọng ấy bắt nguồn từ nhận
thức sâu sắc đối với vấn đề có tính quy luật ấy của sự nghiệp xây dựng một nền
văn nghệ mới. Với ý thức ấy, Đảng còn luôn luôn chú trọng phát hiện và bồi
dưỡng các mầm non năng khiếu để phát triển tài năng.
3)
Đảng luôn luôn coi lao động nghệ thuật là một thứ lao động đặc biệt, mang nhiều
cá tính rõ rệt. Đảng thường áp dụng phương pháp tác động riêng biệt đến từng
nghệ sĩ chứ không phải hàng loạt và đồng loạt. Đảng cần biết rõ tài năng từng
người, sở trường của từng người, những yêu cầu và nguyện vọng sáng tạo của từng
người và tạo nhiều điều kiện để từng người sáng tạo.
4)
Một đặc điểm trong phương thức lãnh đạo và hướng dẫn các hoạt động văn hoá, văn
nghệ của Đảng là vận dụng sự phê bình, coi trọng công tác lý luận và hết sức
khuyến khích sự phê bình. Sự phê bình văn nghệ vừa có ý nghĩa thảo luận, tranh
luận để tìm ra điều gì hay nhất, tốt nhất, vừa để giúp các nghệ sĩ sáng tác
nâng cao trình độ sáng tác, vừa có thể hướng dẫn giáo dục nghệ thuật cho công
chúng.
Công
tác lý luận, phê bình văn nghệ giúp Đảng lãnh đạo và hướng dẫn các hoạt động
văn nghệ. Những người có trách nhiệm lãnh đạo văn nghệ phải có một trình độ lý
luận phê bình nhất định.
5)
Văn nghệ sống trong đời sống của nhân dân, của công chúng. Quan tâm tới công
chúng, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của công chúng đối với văn nghệ cũng là
một đặc điểm quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Coi trọng công
chúng thể hiện ở cả hai mặt. Một mặt quan tâm tới việc giáo dục thẩm mỹ cho
công chúng, nâng cao trình độ thưởng thức nghệ thuật của công chúng, bồi dưỡng
những thị hiếu lành mạnh cho công chúng. Mặt khác, hiểu thấu được nhu cầu,
nguyện vọng và thị hiếu của công chúng để hướng hoạt động văn nghệ thoả mãn
ngày càng đầy đủ các nhu cầu và thị hiếu của công chúng, đồng thời dựa vào ý
kiến của công chúng để đánh giá các tác phẩm cho công bằng và chính xác. Phải
biết kết hợp lý luận với ý kiến công chúng để đánh giá tác phẩm. Hết sức tránh
đem ý kiến chủ quan của người lãnh đạo để làm tiêu chuẩn đánh giá.
Có
lần các nhà làm phim đem phim mới làm đến chiếu cho Bác Hồ xem, sau khi Bác
xem, anh em hỏi xin ý kiến của Bác, Bác chỉ vào những khán giả cùng ngồi xem và
bảo các nhà làm phim rằng : “Hỏi ý kiến của đồng chí này xem sao”. Đó là một
thái độ mẫu mực, biểu hiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với văn hoá, văn
nghệ.
6) Một đặc điểm quan trọng nữa trong phương thức lãnh
đạo của Đảng là tổ chức sự lãnh đạo. Về mặt tổ
chức, Đảng thực hiện sự lãnh đạo ở hai lực lượng.
a)
Lực lượng đảng viên trong các tổ chức đảng ở các đơn vị, các đoàn thể văn nghệ.
Đảng hết sức quan tâm việc phát triển đảng viên và củng cố tổ chức đảng trong
các tổ chức này, làm cho đội ngũ đảng viên ngày càng đông, càng mạnh. Các đảng
viên trong các tổ chức này chủ yếu là những trí thức, những nghệ sĩ là những
người thấm nhuần lý tưởng và lý thuyết của Đảng, thấm nhuần những quan điểm của
Đảng, vận dụng vào hoạt động thực hiện của đơn vị mình, bảo đảm cho những hoạt
động văn nghệ luôn theo đúng phương hướng chính trị của Đảng trong văn nghệ,
thúc đẩy sự phát triển của văn nghệ mạnh mẽ và đúng hướng.
b)
Lực lượng thứ hai là các cán bộ tham mưu của Đảng trong các cơ quan tham mưu
của cấp uỷ. Những cán bộ tham mưu này tuỳ tình hình cụ thể có thể nằm trong các
cơ quan tư tưởng của Đảng (tuyên huấn) hoặc trong các cơ quan văn hoá của Đảng.
Yêu cầu lý tưởng đối với những cán bộ này phải có phẩm chất chính trị cao và
vững, đồng thời hiểu biết sâu sắc văn nghệ đến mức là chuyên gia có trình độ lý
luận cao và có sức cảm thụ nghệ thuật chính xác và mạnh mẽ. Những cán bộ này
phải là những người báo cáo tình hình với sự phân tích sâu sắc và chính xác với
cấp uỷ và đề nghị những ý kiến chỉ đạo thích hợp để cấp uỷ quyết định sự chỉ
đạo của mình.
7)
Đảng luôn luôn củng cố và tăng cường sự lãnh đạo đối với văn hoá, văn nghệ để
bảo đảm cho văn hoá, văn nghệ phát triển mạnh mẽ và nâng cao chất lượng để văn
hoá, văn nghệ thực hiện có hiệu quả lớn đường lối chính trị của Đảng và thực
hiện nhiệm vụ chính trị của mình.
Đại
hội lần thứ VI của Đảng xác định Đảng phải tăng cường và cải tiến sự lãnh đạo
của Đảng đối với văn hoá, văn nghệ cho phù hợp với đặc thù của nó.
Sự
tăng cường và cải tiến này có nghĩa là cần nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng.
Nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng bao gồm việc nâng cao kiến thức chung và
kiến thức văn hoá, văn nghệ, nâng cao bản lĩnh của các tổ chức đảng. Cải tiến
sự lãnh đạo của Đảng cũng có nghĩa là phải khắc phục những phong cách lãnh đạo
của các tổ chức đảng chưa phù hợp với đặc thù của văn hoá, văn nghệ.
Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng còn có nghĩa là phải hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
Điều
cần lưu ý là sự lãnh đạo của Đảng phải được thực hiện ở rất nhiều phạm vi hoạt
động của văn hoá, văn nghệ. Nhưng hầu như tất cả những nội dung và phương thức
lãnh đạo kể trên đều phải nhằm vào một đối tượng quan trọng cần lãnh đạo là các
lực lượng hoạt động văn hoá, văn nghệ, các lực lượng sáng tạo, tức những con
người cụ thể, những nghệ sĩ. Những nghệ sĩ sáng tạo là những con người giàu cảm
xúc, nhạy cảm với cuộc sống, có lao động đặc thù, có tài năng (tài năng lớn hay
tài năng nhỏ), luôn có hoài bão sáng tác, luôn quan hệ và tiếp xúc với công
chúng, có cuộc sống riêng bình thường, lại có cuộc sống sáng tạo. Tiến hành
lãnh đạo văn hoá, văn nghệ, Đảng phải luôn luôn xử lý những vấn đề có quan hệ
đến bản thân các con người cụ thể ấy.
* * *
Tất cả những đặc điểm
vừa nêu trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với văn hoá văn nghệ giúp chúng ta hiểu rõ vì sao Đại hội Đảng lần thứ VI
lại đề ra một yêu cầu quan trọng : “nâng cao trình độ lãnh đạo”. Đây là một yêu
cầu rất phải lẽ, rất cấp bách và kịp thời vì toàn bộ tình hình đất nước đòi hỏi
sự đổi mới toàn diện và do đó trước hết là đòi hỏi sự đổi mới lãnh đạo tức là
đòi hỏi lãnh đạo phải có một trình độ mới, đúng hơn, cao hơn.
Một
trình độ lãnh đạo mới cần được đánh dấu trước hết bằng quan niệm nhận thức về
nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng xã hội. Lãnh đạo xây dựng xã hội không phải chỉ là
làm sao làm được nhiều của cải vật chất, tuy rằng việc đó là việc rất cần
thiết, rất quan trọng. Lãnh đạo xây dựng xã hội trước hết và sau cùng là xây
dựng những con người, là xây dựng văn hoá, là tạo nên những giá trị tinh thần,
tạo nên nền tảng đạo đức và lối sống tốt đẹp cho xã hội. Chính vì vậy, văn hoá
vừa là động lực của cách mạng, vừa là mục tiêu của cách mạng. Con người vừa là
chủ thể sáng tạo xã hội vừa là sản phẩm của các hoạt động xã hội. Con người là
đối tượng phục vụ cao nhất của mọi hoạt động xã hội. Con người phát triển hài
hoà toàn diện là mục tiêu cao nhất của các hoạt động xã hội. Như vậy lãnh đạo
văn hoá, không phải chỉ là sự quan tâm một số mặt công tác cụ thể mà là sự quán
triệt, sự thấu suốt nhuần nhuyễn một quan niệm về văn hoá, về con người trong
mọi hoạt động xã hội, trong đó trước hết là các hoạt động sản xuất, kinh tế, là
những suy nghĩ về các phương hướng phát triển văn hoá, về bản chất nền văn hoá
ta cần xây dựng, về các lĩnh vực hoạt động sản xuất tinh thần, về những giá trị
tinh thần ta đã có, đang có và sẽ có. Ý thức này cần được hình thành một cách
có hệ thống, có nguyên lý, chứ không phải chỉ là sự ngẫu hứng hoặc ý thích
riêng của từng đồng chí Bí thư hay cấp uỷ viên về một môn thể thao hay nghệ
thuật nào.
Nghị
quyết Đại hội VI có ghi là cần nâng cao trình độ lãnh đạo của các cơ quan quản
lý văn hoá các cấp. Phải hiểu rằng “nâng cao trình độ lãnh đạo” thì trước hết
đó là yêu cầu đối với các tổ chức Đảng. Tổ chức Đảng cũng có nhiệm vụ phải quản
lý văn hoá vì tổ chức Đảng phải có trách nhiệm toàn diện về mọi mặt đời sống xã
hội, không thể hiểu máy móc rằng chỉ cần nâng cao trình độ của các cơ quan trực
tiếp phụ trách văn hoá như Bộ Văn hoá, các Sở Văn hoá, các Cục, Vụ, các nhà
hát, v.v…
Các cơ quan lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước có
thể có ba loại :
1. Các cấp uỷ Đảng, trong đó có vai trò quan trọng của
các đồng chí Bí thư.
2.
Các cơ quan tham mưu của Đảng.
3.
Các cơ quan quản lý và điều hành của bộ máy Nhà nước.
Chúng
ta thường bắt gặp những tình hình không ổn định lắm như sau :
Các
cấp uỷ đầy tinh thần trách nhiệm thường đứng trước những nhiệm vụ cấp bách về
kinh tế và cực kỳ phức tạp về đời sống vật chất với những điều kiện hết sức hạn
chế về tài chính, vật tư, với các cơ chế phiền hà, nên không có thì giờ, không
có điều kiện suy nghĩ đến những vấn đề văn hoá tinh thần của xã hội. Thỉnh
thoảng có vài hiện tượng “không đáng hài lòng” nào đó thì lại dễ dàng kết luận
là “có sự buông lỏng”, nhưng cũng không xác định được là ai buông lỏng và nếu
không buông lỏng thì lẽ ra nên làm thế nào tốt hơn. Trong thực tế có những sự
việc mà cứ máy móc áp dụng công thức, không buông lỏng thì phải nắm chặt, có
khi lại hỏng việc chứ không phải tốt hơn. Thực chất của tình hình là vì ta
không để tâm để lo đến các vấn đề văn hoá tinh thần, không có ý thức, quan niệm
và kiến thức cần thiết, cho nên ta đã không xử lý, không biết xử lý và ta
“buông trôi” chứ không phải chỉ là “buông lỏng”. Ta đã không thực hiện sự lãnh
đạo. Trong khi đó, có lúc một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt nào đó lại phải
“đích thân xét duyệt” một bộ phim, một tiết mục sân khấu, một ca khúc hay một
bức tranh, bức tượng để đề ra những quyết định tối hậu về số phận tác phẩm đó,
tuy bản thân các đồng chí đó chưa hề được trang bị kiến thức cần thiết để làm
việc đó, ngoài những kinh nghiệm sống quý giá của mình. Cũng có nơi, ngành thể
thao rất hạnh phúc có được đồng chí Bí thư mê đá bóng và do đó đội bóng được
nuôi dưỡng đầy đủ và có sân vận động khang trang. Đoàn cải lương rất hạnh phúc
vì có đồng chí Chủ tịch rất mê cải lương, v.v… và v.v…
Những
tình hình “ngẫu hứng” kể trên nói lên tình trạng “không có sự lãnh đạo ổn định”
cần phải được khắc phục một cách nghiêm túc.
-
Về các cơ quan tham mưu của Đảng thì tình hình chung là nhiều cấp uỷ chưa có cơ
quan tham mưu, chưa có cán bộ tham mưu. Cũng chưa có quan niệm về cán bộ tham
mưu cho chính xác. Một số nơi có lập cơ quan tham mưu, thậm chí lập cả cơ quan
đào tạo chuyên ngành văn hoá, văn nghệ. Thế nhưng thông thường ở đấy người ta
chỉ chọn cán bộ tập trung vào tiêu chuẩn tin cậy về chính trị và có quá trình
cách mạng. Đành rằng những tiêu chuẩn ấy là quan trọng và cần thiết, song nếu
chỉ như vậy thì rõ ràng là chưa đủ. Những người như thế không thể làm tham mưu
được dù rằng họ là những vốn quý, những người đáng kính trọng.
Những
người làm tham mưu cho Đảng về văn hoá, văn nghệ nhất thiết phải có ý thức
chính trị, ý thức cao về Đảng. Nhưng những điều kiện khác rất cốt yếu không thể
không có là có kiến thức cơ bản, tương đối đầy đủ về văn hoá, văn nghệ, có
trình độ nhạy cảm, tiếp xúc nhiều với văn nghệ, có khả năng đánh giá tương đối
chính xác các hiện tượng nghệ thuật. Họ lại còn phải là người có tâm huyết, có
nhiệt tình yêu mến nghệ thuật, đủ tin cậy và tốt nhất là có được cảm tình với
giới văn nghệ, tiếp cận dễ dàng với họ, có tính trung thực cao.
Người
làm tham mưu cho Đảng phải hiểu được tiếng nói của văn nghệ sĩ và làm cho văn
nghệ sĩ hiểu được tiếng nói của Đảng. Người của Đảng nói chuyện với văn nghệ sĩ
mà như người điếc nói chuyện với người ngọng thì hoàn toàn không được. Cấp uỷ
phải lãnh đạo toàn diện. Mỗi lĩnh vực, cấp uỷ phải có tham mưu giỏi. Cấp uỷ
phải biết chọn tham mưu và dùng tham mưu, tham mưu phải biết việc mình và biết
giúp cấp uỷ. Đó là một điều rất quan trọng để nâng cao trình độ lãnh đạo.
Đối
với các cơ quan trực tiếp quản lý các cơ quan và cơ sở văn hoá thì cũng có
nhiều vấn đề đặt ra. Trước hết là đang có mâu thuẫn giữa các cơ quan quản lý
hành chính tổng hợp như kế hoạch, tài vụ, tổ chức, cán bộ, đào tạo với các đơn
vị nghệ thuật, các cơ sở và nghệ sĩ sáng tạo. Các cơ quan hành chính chưa có sự
hiểu biết cần thiết về những đặc thù nghệ thuật và đặc điểm lao động của nghệ
sĩ, chưa có các phương pháp, các hình thức và quy trình quản lý phù hợp, nên
còn gây nhiều phiền hà, tréo giò, trở ngại.
Mặt
khác cũng có mâu thuẫn giữa các cơ quan, cơ quan sở văn hoá tức là các cơ quan
chuyên ngành với các cơ quan lãnh đạo và chỉ đạo chung. Dù muốn hay không, các
cơ quan văn hoá vẫn phải hàng ngày tiếp xúc với văn nghệ sĩ, với tác phẩm, với
kiến thức, với thông tin chuyên ngành trên thế giới và ở trong nước, do đó tự
nhiên là kiến thức, ý thức của những người hoạt động ở đây luôn luôn được bổ
sung, nâng cao và đổi mới. Trong khi đó ở các cơ quan lãnh đạo và chỉ đạo chung
lại ít có điều kiện như vậy nên dễ xảy ra những trường hợp không ăn khớp, thiếu
đồng bộ, thậm chí chậm chạp. Chẳng hạn sau khi một vấn đề mới nào đó được
truyền đạt, một kinh nghiệm hay được phổ biến, một nghị quyết nào đó của Đảng
được quán triệt thì thường thường ở anh em chuyên ngành đều có một nhận xét
giống nhau : “Giá như cấp uỷ và cơ quan chính quyền của chúng tôi cũng thấy vấn
đề như thế này thì hạnh phúc cho chúng tôi quá !”.
Còn
các cơ quan và cơ sở văn hoá nghệ thuật thì lại luôn luôn có mâu thuẫn riêng,
đứng trước những vấn đề chất lượng nghệ thuật, những đòi hỏi của công chúng,
những vấn đề phương hướng hoạt động, điều kiện hoạt động, mà các cơ sở chưa đủ
sức vươn lên được.
Đó
là tóm tắt ba mặt mâu thuẫn của các cơ quan và cơ sở văn hoá nghệ thuật. Tất cả
những vấn đề của cơ quan lãnh đạo, cơ quan tham mưu, cơ quan và cơ sở chuyên
ngành đều là nội dung của yêu cầu “nâng cao trình độ lãnh đạo” để phát triển sự
nghiệp văn hoá, văn nghệ.
*
* *
Để
thực hiện được sự “nâng cao trình độ lãnh đạo” văn hoá, văn nghệ, cần phải giải
quyết các vấn đề như sau :
1)
Trước hết phải giải quyết các vấn đề về quan niệm, về nhận thức. Phải xác định
quan niệm cho rõ văn hoá và con người, văn hoá là con người. Văn hoá vừa là
động lực vừa là mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con người vừa là chủ
thể sáng tạo trong cách mạng, vừa là đối tượng phục vụ cao nhất của mọi hoạt
động xã hội. Con người phát triển toàn diện hài hoà là mục tiêu cao nhất của
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Lãnh
đạo xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa phải trước hết và sau cùng là nhằm vào văn
hoá. Phải bắt đầu xây dựng nền văn hoá mới, con người mới ngay từ bây giờ,
không chờ đến sau khi có kinh tế phát triển cao.
2)
Muốn thế phải hiểu biết thế nào là văn hoá, thế nào là văn hoá xã hội chủ
nghĩa, thế nào là văn học nghệ thuật, thế nào là tính giai cấp, tính Đảng, tính
nhân dân, tính dân tộc của văn hoá, văn nghệ. Phải hiểu biết những nguyên lý cơ
bản của mỹ học Mác – Lê-nin, các vấn đề bản chất của vai trò và chức năng xã
hội của văn học nghệ thuật, đặc thù của văn học, nghệ thuật, đặc trưng ngôn ngữ
của từng loại nghệ thuật.
Phải
biết yêu mến văn học, nghệ thuật. Yêu văn học, nghệ thuật tức là biết yêu cái
đẹp, yêu cái tốt, có ý muốn tự hoàn thiện, nâng cao mình và nâng cao xã hội, đó
là tình cảm cần thiết của người lãnh đạo.
3)
Phải giải quyết các vấn đề cơ chế. Trước hết là cơ chế lãnh đạo, bao gồm :
Chương trình nghị sự của các cấp uỷ không bao giờ được thiếu vấn đề văn hoá.
Cần phải xây dựng, kiện toàn và sử dụng tốt cơ quan tham mưu, phải chọn cán bộ
đúng cho cơ quan tham mưu, trao nhiệm vụ đúng cho cơ quan tham mưu, qua cơ quan
tham mưu và trực tiếp tiếp xúc với giới trí thức văn hoá, văn nghệ.
Thứ
hai là cơ chế, chính sách, bao gồm chính sách khuyến khích sáng tạo, chính sách
bảo tồn, đặc biệt chú ý chính sách thù lao lao động nghệ thuật phù hợp với đặc
thù của nó, kể cả chính sách nhuận bút các loại và chính sách tiêu thụ sản phẩm
nghệ thuật, chính sách tạo công ăn việc làm cho nghệ sĩ. Cần có chính sách về
nguồn đầu tư cho văn hoá, cần có nguồn đầu tư thứ hai ngoài ngân sách cho sự
nghiệp văn hoá bằng cách mở rộng Quỹ văn hoá với sự mở rộng nguồn thu, mở rộng
các hoạt động kinh doanh văn hoá để có một nguồn đầu tư lớn cho các hoạt động
và các công trình văn hoá.
Thứ
ba là cơ chế đánh giá. Cơ chế này có ý nghĩa đặc biệt. Cần khắc phục tình trạng
tuỳ tiện trong việc đánh giá, tình trạng vai trò cá nhân có quyền lực quá lớn
trong việc đánh giá các sản phẩm nghệ thuật. Phải xây dựng các Hội đồng quốc
gia gồm những nghệ sĩ bậc thầy được rèn luyện khá về chính trị, được đào tạo có
hệ thống và cơ bản về chuyên môn, trung thực và vô tư. Những Hội đồng này có
thẩm quyền đánh giá các tác phẩm và chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân
dân. Không ai có quyền bác bỏ những quyết định của Hội đồng, trừ khi có những
vấn đề chính trị nghiêm trọng. Các Hội đồng này là cơ quan Nhà nước, được bổ
nhiệm theo một thể chế dân chủ thực sự.
Thứ
tư là cơ chế vai trò xã hội của các hội sáng tạo. Đảng và Nhà nước đã công nhận
và bảo trợ cho các Hội sáng tạo, cần xác định rõ hơn nữa vai trò các Hội trong
các hoạt động xã hội. Cần có cơ chế tài chính cho các Hội độc lập về tài chính,
có Quỹ hội lớn để có đủ điều kiện phát triển hoạt động, tạo điều kiện cho các
Hội có đủ sức chịu trách nhiệm giải quyết các công việc của mình ngày một tốt
đẹp.
*
* *
Trình độ lãnh đạo phải thể hiện
ở lý luận, ở tổ chức, ở con người, ở chế độ làm việc, ở cơ chế, ở chính sách.
Cần có phương hướng giải quyết đồng bộ các vấn đề trên, ta mới tạo được bước
ngoặt có ý nghĩa trong sự nghiệp phát triển văn hoá, văn nghệ nói riêng và sự
nghiệp phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung. (Trích Trần Độ tác phẩm, tập III, Nxb Hội Nhà văn, 2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét