(Lược ghi bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ tư ngành
văn hóa, nghệ thuật tỉnh Nghệ Tĩnh, ngày
13/9/1987)
Trước đây khi làm công tác quân sự, rồi chính trị
trong quân đội, do nhiệm vụ, tôi thường hay đi nói chuyện. Được đi nhiều nơi,
chuyện trò với nhiều tầng lớp, thật thú vị. Và gần đây, khi từ trên xuống dưới,
từ dưới lên trên đều sôi nổi bàn về việc đổi mới tư duy, tôi càng thấy những
cuộc gặp gỡ chuyện trò, được đi nói chuyện, nói rồi nghe, nghe, nói, làm, rồi lại nói... thấy vỡ ra nhiều điều, tôi càng thấy thú vị và thú thật
lại càng... thích nói chuyện.
Có thật là văn nghệ cũng cần đổi mới không nhỉ? Đặt
câu hỏi này ra trong tình hình đang tiến triển của sự đổi mới toàn diện trên
mọi lĩnh vực, xem ra có vẻ “hợp thời” đấy! Nhưng nên nhớ sự “hợp thời” ở đây
hoàn toàn không phải một cái “mốt”, là sự “chả nhẽ” hình thức nào, mà là sự đổi
mới dứt khoát phải có, vô cùng cần thiết và không thể khác. Có người còn muốn
rõ ràng hơn, cụ thể hơn liền dùng cặp từ “giải phóng” để nói về sự đổi mới, như
“giải phóng tiềm năng sáng tạo”, ... chẳng hạn.
“Giải phóng”, thế thì từ trước
đến nay chúng ta bị tù hay sao mà nay đòi giải phóng? Cố nhiên chẳng ai hiểu
theo nghĩa như thế nhưng quả thực trước đây trong văn nghệ chúng ta có những yếu kém và sai trái,
có những cái lạc hậu và lỗi thời đã hạn chế tiềm năng sáng tạo, nay phải đổi
mới tháo gỡ để mở ra thời kỳ phát triển mới, một chặng đường cách mạng mới cho
sự hoàn thiện.
Vậy đổi mới tư duy trong văn nghệ là thế nào? Quan
điểm, quan niệm cũ, mới ra sao? Cần phải thực hiện ở những khâu nào, mặt nào?
Rồi lại quan hệ giữa các khâu các mặt ấy, cái nào chính, thứ tự tầm quan trọng
của từng khâu ra sao? Cái đích cần đạt tới và hoàn thiện là gì? ... Tóm lại
đổi mới tư duy không chỉ là khẩu hiệu, không chỉ là những chữ chung chung, mà
nó phải thành “những việc cần làm ngay” và cả những việc liên tục, lâu dài mãi
mãi, như là khi nào còn là con người thì phải hoàn thiện bộ mặt tinh thần của
con người, còn cộng đồng, còn xã hội thì còn phải hoàn thiện bộ mặt tinh thần
của cộng đồng, của xã hội vậy.
Và cũng như tất cả mọi công việc trên đời thường là có
rất nhiều mặt, nhiều khâu tạo thành nhưng trước hết và bao giờ cũng là từ con
người. Mà con người ở đây chính là bản thân văn nghệ sĩ - những chủ thể sáng
tạo, là lực lượng sáng tác. “Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là đảm bảo
quyền tự do sáng tạo, đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho năng lực được
sử dụng đúng và phát triển. Phá bỏ những quan niệm hẹp hòi không thấy trí thức
ngày nay là những người lao động xã hội chủ nghĩa, được Đảng giáo dục và lãnh
đạo, ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân và nông dân”. Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ VI đã chỉ ra như thế nhưng làm thế nào để tạo ra những điều kiện
(vật chất, tinh thần) cho quyền tự do sáng tạo? Rồi lại cần có những biện pháp
xây dựng, đấu tranh cụ thể ra sao để xóa bỏ những quan niệm hẹp hòi? Trả lời, rồi phấn đấu làm được chừng đó yêu cầu
thật chẳng ít công việc và công sức. Nhưng không làm thế thì làm thế nào để
khơi nguồn cho sự sáng tạo?
Đây là mới nói về những điểm cần giải quyết
trong nhận thức của mọi người đối với trí thức trong đó có văn nghệ sĩ. Thế còn
bản thân văn nghệ sĩ thì sao? Cũng không ít những dằn vặt, mắc mớ, khó khăn
trong nhận thức của chính họ.
Ta đã gặp không ít trường hợp có những suy luận vô lý
về một vài tác phẩm văn nghệ. Những suy luận ấy quy nạp những câu, những chữ,
những hình vẽ, những nốt nhạc nào đó thành những “cái gì đó” chống đối, âm mưu,
... Những điều đó thành sự “hù dọa”, làm các văn nghệ sĩ sáng tác luôn phải lo
sợ một “cái gì đó” rất mơ hồ mà rất cụ thể, đi tới tự ức chế sức sáng tạo bay
bổng của mình.
Cái vỏ bao thuốc lá Tam Thanh người ta vẽ cái cửa
động, việc rõ ràng đơn giản thế, vậy mà cũng có người thì thầm vẽ ông nọ ông
kia, ám chỉ cái này cái khác thì có khổ cho người ta không!
Không nên kiêu ngạo và huyễn hoặc mình nhưng người
nghệ sĩ chân chính cần ý thức được vị trí cao quý của mình trong nền văn hóa
dân tộc và trong tình cảm của nhân dân, Có lần tôi làm Trưởng đoàn một đoàn các
văn nghệ sĩ xuống thăm một địa phương. Khi giới thiệu đoàn với những chức danh
lãnh đạo và hành chính thì công chúng phản ứng bình thường. Nhưng khi giới
thiệu các văn nghệ sĩ với những tác phẩm tiêu biểu và quen biết của họ thì công
chúng xôn xao hẳn lên. Họ ùa lại với văn nghệ sĩ, xem mặt, xin chữ ký, đòi chụp
ảnh chung, đòi hẹn gặp lại, v.v... Như vậy nhân dân thực sự mến yêu các văn
nghệ sĩ và mến yêu các tác phẩm của họ với một tình cảm xứng đáng, một tình cảm
thật vô tư mà sâu sắc. Có địa phương, nhân dân còn đòi dựng tượng “cái ông nhạc
sĩ” có bài hát tuyệt hay về quê hương họ đang đứng cạnh tôi kia kìa! ... Thế
đấy!
Tiếp theo là việc xem xét đánh giá những tác phẩm đã
có, cả về chất lượng nội dung và trình độ nghệ thuật; dự kiến những yêu cầu cao hơn như thế nào cho các tác phẩm trong
tương lai. Đánh giá hay dự kiến đều cần có những tiêu chuẩn, mà đã đổi mới thì
không thể căn cứ vào những cách đánh giá và những tiêu chuẩn đã lỗi thời. Xây
dựng tiêu chuẩn mới như thế nào cũng là cả một vấn đề lớn, khó, đòi hỏi nhiều
suy ngẫm, khảo cứu, đối chiếu công phu.
Thế nào là hấp dẫn sâu sắc quý giá và thế nào là hấp
dẫn rẻ tiền?
Ở khâu này cũng cần đòi hỏi nhiều công phu khảo sát,
xem xét đến những chuyển biến trong thị hiếu của công chúng. Còn những gì thuộc
thị hiếu lạc hậu, tầm thường, những gì là nhu cầu tinh thần mới mẻ, sâu sắc cần
phải đáp ứng. Về phía văn nghệ sĩ cũng cần có những điều kiện trao đổi học hỏi,
nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, sự từng trải mới có đủ bản lĩnh nhận ra
cái gì là hấp dẫn sâu xa, cái gì là hấp dẫn rẻ tiền.
Xin lấy ví dụ: Bóng đá sở dĩ hấp dẫn hàng trăm triệu
con người trên khắp hành tinh là bởi trước hết ở đấy có đấu sức, đấu tài, đấu
trí, có thắng, có bại, có vô vàn những tình huống bất ngờ, không bàn thắng bàn
thua nào giống nhau và bao trùm lên là vẻ đẹp dẻo dai, tài trí, dũng mãnh của
con người... Tác phẩm văn chương nghệ thuật cũng cần có những yếu tố hấp dẫn
tương tự thì mới lôi cuốn người ta. Nhưng cũng lại thấy không chỉ có thế. Tôi
đã từng được xem không ít những cuốn sách, bộ phim trinh thám, tình ái hết sức
rắc rối, ly kỳ mà không tạo được những cảm xúc vui, buồn, đắm say trong chiều
sâu tình cảm, tâm lý; không khiến mình phải thao thức suy nghĩ đến khó dứt...
Đấy chỉ là những hấp dẫn chốc lát rẻ tiền, dễ nhàm chán chóng quên và dĩ nhiên
không để mất thì giờ xem lại hoặc tiếp tục xem những tác phẩm ly kỳ rắc rối,
tương tự khác. Thưởng thức văn nghệ cũng như quan hệ bầu bạn giữa con người.
Con người nào từ nói năng phong độ đến tâm tình, suy nghĩ sâu xa, ý nhị thì gặp
một lần rồi không những mong gặp lại, mà còn nảy sinh nhu cầu kết bạn. Còn ngược lại thì… Tất nhiên mọi
việc, đều cũng sẽ ngược lại!…
Như trên tôi đã nói, văn nghệ sĩ thật quý và hiếm, cần
được hết sức coi trọng. Trình độ thưởng thức văn nghệ của công chúng ngày càng
phải được nâng cao, phong phú. Nhưng muốn làm thế thì không thể không nhìn lại,
không bàn và làm cho ra nhẽ về tình trạng phân phối, phổ biến các tác phẩm trên
các mặt xuất bản, biểu diễn, triển lãm, tiêu thụ các giá trị nghệ thuật, cơ chế
tổ chức và kinh tế tài chính của nó. Và tất cả những cái này không nằm ngoài
chương trình kinh tế xã hội, những chính sách kinh tế, chính sách xã hội. Vậy cuối
cùng bao trùm lên là cần phải xem đến sự lãnh đạo và quản lý của các cơ quan có
trách nhiệm của Đảng và Nhà nước.
Chúng ta cần bắt đầu đi từ những quan điểm, quan niệm
nghĩa là đi từ cách nghĩ, bởi lẽ nghĩ mà đã không đến thì làm sao hành động đến
được?
Chính sách xã hội là gì? Thật khó có thể kể ra hoặc
nói gọn trong một câu được, nhưng trước tiên
cần biết đấy chính là những điều quan hệ đến toàn bộ không gian và thời gian
sống của con người. Và con người thì như chúng ta đều thấy đấy là vốn quý nhất của xã hội, nó vừa là động lực phát triển xã hội, lại
vừa là mục đích của mọi xây
dựng xã hội. Bởi thế chừng nào còn coi nhẹ chính sách xã hội tức là coi nhẹ yếu
tố con người. Chương trình, chính sách kinh tế là cực kỳ quan trọng, nhưng xét
cho đến cùng thì cái đích phục vụ của nó vẫn phải là những chương trình chính
sách xã hội, đấy là sự công bằng, nhà ở, cơm ăn, áo mặc, niềm vui, nỗi buồn, ...
của mỗi con người. Nó không phải là những việc “thêm vào”, “bên cạnh” hay “cái
đuôi” của chính sách kinh tế, mà là mục đích, là ý nghĩa cao cả, sống còn của
mọi chính sách kinh tế.
Thuyền trên sông Ca Long, Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Ảnh: Trần Độ. |
Thế còn bản chất và vai trò của văn nghệ là gì? Trước
khi đi vào những vấn đề này có lẽ cũng cần bàn rộng ra một chút trên một vài
quan niệm về lao động chất xám. Bây giờ, không ai không biết cả lao động chân
tay (cơ bắp) và lao động trí óc (chất xám) đều là lao động và đều được coi
trọng. Nhưng không phải không có những nơi thiên lệch đến mức chỉ coi lao động
chân tay mới là lao động. Còn lao động trí óc ư? Khó xác định quá, nhất là khi
phải định mức, đánh giá thi đua, đây là chưa nói đến lúc còn nhìn lao động trí
óc như một sự nhàn nhã, chơi chơi thế nào ấy! “Cái thằng cha gì mà kỳ cục. Đã
cặm cụi suốt ngày trên bàn giấy, về nhà lại còn chúi đầu vào sách vở tới khuya.
Coi chừng chuyên môn thuần túy
đó”.
Có một bà mẹ thấy các con gái lớn chỉ ngồi đọc sách
ghi chép, thì thường phàn nàn với người khác: “Cả ngày nó có làm được gì đâu?”. Đối với bà là
phải xách nước, quét sân, giặt giũ, làm bếp mới là làm việc. Còn đọc sách, suy nghĩ thì không phải là làm việc. Có
thể có không ít bà mẹ và những người khác vẫn suy nghĩ như vậy.
Thật tình lâu
nay không ít những
người lao động trí óc bị đặt dưới những cách nhìn như thế. Văn nghệ cũng bị ức
chế không ít bởi những quan niệm đơn giản, phiến diện, thậm chí cũng thực dụng.
Đơn giản thì cho rằng văn nghệ thuộc loại phù phiếm, có cũng được, không cũng
được, là cái sự thêm vào cho vui khi no đủ. Thực dụng thì lại nhìn nó ở góc độ
công cụ, chỉ để phục vụ một công việc, một nhiệm vụ gì đó như một kiểu “ăn theo”.
Từ đó sinh ra những định nghĩa văn nghệ là cái này, văn nghệ là cái kia, nghĩa
là chỉ đứng trên góc độ phương tiện mà định nghĩa, chứ còn bản chất nó là gì,
vai trò tồn tại đích thực của nó trong việc tạo nên bộ mặt tinh thần một dân
tộc, một xã hội; giá trị tinh thần của toàn nhân loại tích lũy từ nhiều đời,
đó là sức sáng tạo tinh thần mạnh mẽ của con người, ... thì lại ít bàn đến để
quan niệm sao cho đúng đắn.
Hãy thử tưởng tượng nếu mỗi con người chỉ có phần thể
xác thì nó có khác động vật khác bao nhiêu? Đấy là còn chưa kể chính bởi có
một đời sống tinh thần truyền nối, giúp vào việc biến đổi và tạo dựng thể chất
qua bao nhiêu đời, con người mới có được làn da, vóc dáng, dung mạo đến ánh mắt,
nụ cười, giọt nước mắt thương cảm, … của con người ngày hôm nay.
Vậy thì văn nghệ, về bản chất chính là “vật liệu” tạo nên
con người, nó chính là con người, chứ còn là cái gì cao quý, thiêng liêng hơn
nữa? Và nếu có lúc, có khi “dùng” văn nghệ để phục vụ một nhiệm vụ nào đó, dù
quan trọng đến đâu cũng không thể quên bản chất, vai trò này của nó. Mà cũng không
thể “dùng” nó hữu ích nhất khi hiểu được bản chất của nó. Bản chất đích thực
bao giờ cũng giữ vai trò quyết định tạo nên sức mạnh và tồn tại. Sử dụng sai
bản chất thì tác dụng sẽ ngược lại là lẽ cố nhiên!
Cũng cần phải xây dựng được những quan niệm đúng đắn
về tính đặc thù của lĩnh vực văn nghệ.
Văn nghệ có đặc thù quan trọng bậc nhất là đặc thù
tình cảm. Bằng những tình cảm nhạy bén, những cảm hứng sâu sắc, độc đáo, người
nghệ sĩ bước vào sáng tạo tác phẩm. Và cũng chính từ những cảm hứng tình cảm
độc đáo ấy, văn nghệ tác động vào tình cảm người thưởng thức, giúp họ bằng
những xúc động sâu sắc, lớn lao mà nhận thức thế giới, nhận thức lẫn nhau và
nhận biết cả chính mình, những nhận thức vừa sâu xa vừa toàn diện, vừa vững
bền. Và cũng chính là từ tình cảm – cái phần sống vô cùng đa dạng, phong phú, tinh
tế, uyển chuyển trong con người – nó đòi hỏi ở văn nghệ một đặc thù nữa là đặc thù sáng tạo, mới mẻ, độc đáo, đa
dạng liên tục, không rơi vào sáo mòn, nhàm chán thì mới đáp ứng được sự phong
phú, đa dạng, tinh tế, uyển chuyển của tình cảm con người.
Chính bởi bản chất, vai trò và những đặc thù như vậy
mà “không thể có hình thái tư tưởng nào thay thế được văn học nghệ thuật trong
việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ,
nếp sống của con người” (Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI).
Vì thế đối xử với văn nghệ là đối xử với tình cảm.
Người làm văn nghệ phải được bồi dưỡng nâng cao tình cảm, phải được tin cậy và
xóa bỏ ranh giới giả tạo giữa lãnh đạo, quản lý văn nghệ với văn nghệ sĩ.
Đã đến lúc trong trường Đảng các cấp phải xây dựng
được chương trình có hệ thống, sâu sắc về văn hóa, văn nghệ để có thể đào tạo
được những cán bộ lãnh đạo, quản lý hiểu biết văn nghệ bằng cả tri thức và tình
cảm ; đủ trình độ nhận biết, phát hiện, giúp đỡ những tài năng trở thành nhà
văn hóa, văn nghệ có tầm cỡ quốc gia, có uy tín quốc tế, thành niềm tự hào của
nhân dân, là trụ cột để xây dựng, bồi đắp nền văn hóa, văn hiến của đất nước.
Chỉ có bằng sự hiểu biết đúng đắn, người lãnh đạo,
quản lý mới xây dựng được lòng quý trọng chân thực với công việc và con người
hoạt động văn nghệ mới có thể tránh được những can thiệp thô bạo, những trù úm,
phán xét cá nhân tùy tiện, độc đoán hẹp hòi. Văn nghệ sĩ cách mạng cũng là
người cách mạng, vậy thì tại sao đã có lúc họ chỉ có việc là lao vào làm, còn
số phận, kết quả công việc lại để cho người không làm, ít hiểu biết phán xét,
duyệt, phê? Có phải đã có lúc chúng ta để rơi vào tình trạng hình như chúng ta
có hai Đảng: Đảng làm (vì
chính những văn nghệ sĩ cũng là đảng viên hoặc quần chúng của Đảng có tổ chức,
có lý tưởng) và Đảng duyệt!
Có một lần tôi được mời đến xem một vở kịch. Giấy thì
ghi là mời xem, nhưng yêu cầu ngầm trong đó là nhờ tôi duyệt, chờ ý kiến tôi để
phân xử một cuộc tranh cãi, kiện tụng ầm ĩ nào đó, vì tôi là lãnh đạo, quản lý
mà! Ngay sau khi xem, tác giả vở kịch chạy đến nói với tôi:
- Anh có biết khi biểu diễn, tôi
ở đâu không? ... Tôi nấp sau cánh gà đấy...
- Để làm gì? - Tôi hỏi.
- Để quan sát anh! - tác giả nói - Chết, cứ theo dõi
từng cái ho, cái khịt mũi, cái lắc đầu, cái cười, cái ngáp, v.v… của anh mà
toát hết cả mồ hôi!
- Ôi, thế dễ thường tôi sung sướng hơn anh đấy à? - Thú
thật tôi gần như mếu khi hiểu ra sự tình - Tôi còn toát mồ hôi gấp mấy anh ấy!
Này nhé, nếu vở hay nhưng vì tôi dốt, tôi chê, đến khi dân xem họ khen hay thì
tôi chui đi đâu? Hoặc giả nếu vở dở, nhưng hợp với cái “gu”, cái trình độ của
tôi, rồi bốc lên, tôi khen, đến khi dân xem,
họ nhận thấy là dở thì tôi phải chui đi đâu? Sống với dân hay là sống
với ai?
Tình trạng bi hài trên của người lãnh đạo, quản lý sẽ
thật khó bảo rằng sẽ không xảy ra nữa nếu chúng ta còn thiếu hiểu biết, thiếu
lòng tin, bao biện và không mở rộng trao đổi, đối thoại chân thành, thẳng thắn,
công khai trên báo chí, không xác định được những tiêu chuẩn thẩm định, giá trị
đích thực của văn nghệ.
Đổi mới tư duy trong văn nghệ cũng có nghĩa là phải đấu
tranh ngay trong quan niệm về bản chất và vai trò văn nghệ, đồng thời còn phải
đấu tranh chống những sản phẩm văn nghệ phản cách mạng, phản tiến bộ, phản dân
tộc, phản nhân đạo đã và đang thâm nhập vào nhân dân ta bằng nhiều con đường.
Là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, cái thật và cái giả, cái đẹp và cái
xấu, cái cao thượng và cái dung tục, hèn hạ… Nghĩa là chỗ nào cũng cần phải có
những quan niệm mới mẻ. Cuộc đấu tranh và xây dựng vì sự sống của tinh thần của
con người này buộc chúng ta phải thực hiện bằng được một phương hướng cần thiết
và duy nhất là: nâng cao chất lượng hoạt động nghệ thuật, bởi lẽ cuộc đấu
tranh này không thể thắng lợi bằng những phương thức đấu tranh của quân sự,
chính trị hay kinh tế.
Đó là tránh nhiệm của văn nghệ sĩ, của trí thức nói
chung, của các cơ quan quản lý văn nghệ, trách nhiệm của toàn xã hội. Tôi xin
được nhấn mạnh là của toàn xã hội, và nếu rành rẽ cụ thể ra thì phải nói là của
tất cả các ngành hoạt động trong guồng máy xã hội, nhà nước; bởi lẽ văn nghệ,
với bản chất và vai trò của nó đã góp phần tạo ra con người - vốn quý, động lực
và cũng là mục tiêu - cho tất thảy mọi ngành hoạt động.
Những hoạt động văn hóa, văn nghệ cũng có thể làm ra
kinh tế (tất nhiên là phải bằng hoạt động văn nghệ, văn hóa chứ không phải đi
buôn và đánh xổ số, ...). Đấy cũng là khả năng cần tính đến, nhưng dẫu sao đấy không
phải là cái chính lẫn cả nhiệm vụ xây dựng con người. Và các ngành hoạt động
khác đã coi con người – “sản phẩm” của văn hóa, văn nghệ – là vốn quý nhất, lẽ
nào lại không dốc lòng giúp đỡ, phục vụ mà có thể coi nhẹ, thờ ơ với văn nghệ?
Lẽ cố nhiên trước hết và cao hơn cả là trách nhiệm của cơ quan lãnh đạo. Đây cũng còn là khâu chúng ta cần phải thông qua từng bước hoạt động, vừa hoạt động vừa tổng kết, suy ngẫm và không ngừng đổi mới để đáp ứng ngày một cao hơn sự phát triển văn hóa, văn nghệ.
Lẽ cố nhiên trước hết và cao hơn cả là trách nhiệm của cơ quan lãnh đạo. Đây cũng còn là khâu chúng ta cần phải thông qua từng bước hoạt động, vừa hoạt động vừa tổng kết, suy ngẫm và không ngừng đổi mới để đáp ứng ngày một cao hơn sự phát triển văn hóa, văn nghệ.
(Trích Trần Độ tác phẩm, tập III, Nxb Hội Nhà Văn, 2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét