Chủ Nhật, 5 tháng 3, 2017

Nhà văn Trần Độ bàn về văn hóa


Thoạt đầu tôi hơi ngợp trước những bài viết về văn hoá mà bài đầu tiên tới 40 trang vi tính khổ A4 có nhan đề: Mấy vấn đề xây dựng nền văn hoá mới XHCN, nhưng đọc thấy không lí luận chung chung chút nào. Những nội dung tưởng như khô khan, nhưng khi viết, cũng như khi nói, dù ở tư cách nhà văn hay tư cách một nhà lãnh đạo, quản lí, ông đều dùng hình ảnh và ngôn từ gắn liền với đời sống. 


Hay như bài: Lối sống và lẽ sống, cái tiêu đề đã mang tính kêu gọi, răn dậy, ông đã dẫn người đọc đi tới cảm thụ của những bè bạn đang nói chuyện với nhau. Thành thử những bài viết mang tính lí luận mà lại chẳng thấy nặng nề lí luận, qua đó, người đọc, người nghe đều cảm nhận ông là người hoạt động thực tiễn và dù giữ cương vị cao nhưng mọi hành động và suy nghĩ đều gắn liền với thực tiễn. Bài: Con người mới ở đâu viết tại Đại Lải tháng 7 năm 1984 dầy 19 trang vi tính khổ A4 chứa đựng khá nhiều suy ngẫm của một nhà lãnh đạo với vấn đề xây dựng con người đang cần có hôm nay. Ông dẫn chứng ra cả nhân vật Ôtenlô trong kịch của đại văn hào Sêcxpia cho tới những anh công nhân Việt Nam đang bám xưởng sản xuất hoặc anh bộ đội Cụ Hồ trên biên giới mà người đọc vẫn thấy những gì ông đưa ra khá nhuần nhuyễn khó bề bác bỏ. Có điều đời sống xã hội ở cả nước ta và trên thế giới thay đổi quá nhanh, phát triển mau chóng, tới mức, hôm qua đã khác hoặc lùi lại nhiều so với hôm nay, nên đôi chỗ cái nhìn phù hợp với đương thời của ông hơi lạ với con mắt hôm nay. Thì năm 1984 với 2010, dù chỉ một phần tư thế kỉ, nhưng lớp thanh niên ba mươi tuổi nghe chuyện kể về những ngày đó còn ngơ ngác như nghe chuyện cổ tích kia mà.
Nổi lên trên tất cả những bài viết của nhà văn Trần Độ là tầm nhìn bao quát của một cán bộ cấp cao trên lĩnh vực mình phụ trách cộng với trái tim đầy nhiệt huyết, sục sôi ý chí, lúc nào cũng đau đáu một lòng, một dạ vì dân, vì nước. Với ông sách vở gắn liền với thực tế, những đúc kết lí luận gắn liền với đời sống xã hội như hai vế của một hằng đẳng thức đáng nhớ không thể tách rời. Và đầu đề các bài viết vẫn mộc mạc, chân thành, như kí và truyện, chẳng hạn: Văn nghệ vũ khí của cách mạng, Đổi mới và dân chủ hoá, Phấn đấu để nền văn nghệ ta phát triển mạnh mẽ, … Song với cách nhìn đa chiều, đa dạng, đã làm cho các bài viết người đọc dễ theo dõi và dễ chấp nhận. Đã đành văn hoá là vấn đề rất rộng, có kinh tế trong văn hoá và văn hoá trong kinh tế, nền văn hoá của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, cũng có những biểu hiện khác nhau và mang tính đặc thù. Bởi vậy văn hoá không thể là sự áp đặt. Văn hoà không bao giờ chấp nhận sự cưỡng chế. Những ai đã sống ở thập kỉ bẩy mươi và tám mươi của thế kỉ trước, chẳng đã chứng kiến cảnh người ta rạch quần ống tuýp, cắt ống loe, gọt đầu những anh để tóc dài, và các cơ quan, cùng với ông gác cổng và cái barie chắn ngang, cùng với dòng chữ cảnh báo không phận sự miễn vào, bỗng có thêm biển đề: Cơ quan chúng tôi không tiếp những ai quần loe đầu bù tóc rối, … Một dạo như thế rồi bỗng dưng tắt lịm và cái biển thêm ra kia cũng biến mất, chẳng ai phân định đúng sai ra sao, ấy vậy nhưng nhà văn Trần Độ cũng đã bàn đến. Ông luôn luôn nhào lặn giữa khái quát và cụ thể trong mỗi bài viết, không tách rời nhau, xen kẽ nhau, khi cái này đi trước cái kia đi sau, khi cái kia đi sau cái này đi trước, bổ sung tôn tạo để cảm hoá người đọc. Là nhà văn từ ngày thành lập Hội năm 1957, sau này ta quen gọi là hội viên sáng lập, nhưng trong tất cả các bài viết của mình, ông không bao giờ nhấn mạnh ý này, thậm chí dường như không hề nói đến, mà luôn coi văn chương của mình còn phải học hỏi bao bậc tài ba khác. Là cán bộ cấp cao được đảng và nhà nước phân công phụ trách vấn đề văn hoá ông viết hay nói cũng như đang tâm sự với người đọc và người nghe. Chẳng hạn trong bài: Tăng cường sự lãnh đạo của đảng trong lĩnh vực văn hoá văn nghệ, ta vẫn không thấy sự huấn thị hay hô hào khẩu hiệu, để rồi tới bài khá dài 69 trang vi tính khổ A4: Văn hoá văn nghệ dưới ánh sáng đại hội lần thứ sáu của đảng, ông đưa ra bao dẫn chứng cụ thể cùng với những điều tâm huyết. Ông đắn đo, ông suy ngẫm, bằng cái nhìn mang tính tổng hợp khái quát và bằng trải nghiệm qua hiểu biết nhận xét của bản thân mình, ông đưa ra kết luận: Can thiệp thô bạo vào công việc sáng tạo cụ thể của văn nghệ sĩ thì chẳng giúp ích gì, nhiều khi còn làm hỏng cả tác phẩm. Vấn đề ông kết luận nêu lên tưởng như cũ nhưng lại luôn luôn mới. Gần đây chẳng đã có sự can thiệp vào tác phẩm Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư đó sao. May mà Tư không để cho luồng gió thô thiển và kiêu ngạo ấy thổi bạt đi nên đã thành công và được bạn đọc khắp nơi yêu mến.
Là cán bộ cấp cao ông được đi tham quan đây đó và được đi dự các hội nghị quốc tế về văn hoá. Thời ông sung sức, phe XHCN vẫn còn, Liên Xô vẫn là hình mẫu ước mơ, tại một hội nghị ở Matxcơva tháng 7 năm 1987, ông dự và quan sát, suy ngẫm, để rồi có những trang viết phê phán về sự nôn nóng dẫn đến các biện pháp buồn cười như cắt quần loe, tóc dài, … nêu ở trên. Và cũng qua hội nghị này, cùng với bao sự giao tiếp và học hỏi, ông đã nói ra nhận xét về vị thế mỗi con người trong xã hội. Khối người chức tước cao, nhưng do cơ chế, do may rủi, do luồn lách, do con ông cháu cha mà có, không thể nào sánh nổi với những con người tài ba, lao động miệt mài, khiêm nhường, luôn học hỏi, đi tới những vinh quang do chính bản thân mình vươn tới. Do vậy việc đánh giá những con người không thể nào nhìn vào chức vụ. Ông hết lòng ca ngợi những nhà văn Liên Xô đầy trí năng sáng tạo, đã chỉ ra cho xã hội thấy được những mâu thuẫn có thể làm chìm đắm cả con tầu cơ chế như Aimatôp, Maiakôpxki, … Để rồi muốn thông qua hình tượng cụ thể ấy kêu gọi hãy nhìn nhận, đánh giá thành tích, công lao, đừng vì chức tước hay cương vị xã hội của đối tượng đó cao hay thấp. Và ở bài: Về nhu cầu văn hoá và thị hiếu nghệ thuật, ông phân tích khá kĩ nhân dân muốn gì trong đời sống văn hoá tinh thần và thị hiếu của họ chắc chắn phải được nâng cao nhưng tôn trọng nét đặc trưng cội rễ chứ nhất định không thể áp đặt. Đặc biệt không được coi thị hiếu của ai đó có cương vị cao rồi bắt mọi người noi theo, coi đó là chuẩn mực. Ý này ta cũng tưởng là cũ nhưng không bao giờ cũ. Mới ngày nào đây ta chả bỏ ra bao nhiêu tiền bạc làm nhà Rông cho đồng bào thượng ở Tây Nguyên, to, đẹp, tại vị trí cao sang, nhưng rồi dân không hưởng ứng, bởi vì có gì đó chưa hợp lòng họ, chưa đi vào được cõi tâm linh của họ. Rõ ràng ta có ý tốt nhưng đã chủ quan và áp đặt.
Nhà văn bàn khá kĩ tới vấn đề kinh tế trong văn hoá và khẳng định mối quan hệ không thể tách rời. Ông phê phán ai đó cho rằng, trước tiên hãy cứ làm kinh tế, giầu có khá giả lên thì văn hoá sẽ đến. Ông cũng phê phán ai đó coi văn hoá quần chúng là thấp kém, là hạ đẳng, mà quên rằng, chính văn hoá quần chúng ở cơ sở đã tạo nền cho văn hoá chuyên nghiệp phát triển, là cái nôi cội rễ cho văn hoá chuyên nghiệp phát triển. Tiếp thu văn hoá của các dân tộc khác là đúng nhưng không thể coi đó là tinh hoa thay thế cho nền văn hoá đặc sắc vốn có của mình. Ông bàn tới những vấn đề văn hoá có tính chắt lọc tinh hoa của các ngành văn hoá nghệ thuật nhưng cũng chú ý đầy đủ tới đời sống văn hoá ở cơ sở, ở mọi đối tượng quần chúng khác nhau. Ông bàn về xây dựng đời sống văn hoá cho công nhân, cho nông dân xóm làng, cho các đơn vị quân đội, cho thanh niên, và đến nhà giam nọ gặp gỡ giám thị cùng các phạm nhân, ông bàn về xây dựng đời sống văn hoá cho cả những người tạm thời mất quyền công dân. Nhớ lại một thời ta hăng say xây dựng cấp huyện. Nào là pháo đài cấp huyện, … Ông cũng bàn nhiều về xây dựng văn hoá cấp huyện như: Từ Hải Hậu đến xây dựng một mô hình văn hoá huyện, Chung quanh vấn đề xây dựng huyện: qui hoạch tổng thể và qui hoạch văn hoá, hay Thủ Đức – mô hình mẫu quản lí văn hoá cấp huyện, … Vấn đề này hôm nay chẳng ai nói tới nữa nhưng những năm đó thì sôi nổi và người ta đã dựng lên cả những huyện điển hình toàn diện. Nhắc tới những vấn đề này ở đây tôi muốn không quên đi kỉ niệm của một thời. Rõ ràng còn nhiều nội dung để bàn về thời kì ấy mà dòng thác đã cuốn ta theo. Cũng như một giai đoạn sục sôi trên báo chí và cả dư luận xã hội về văn hoá Liễu Đôi. Tôi chưa được về Liễu Đôi mà sao thèm khát. Hôm nay dường như không thấy ai nhắc tới Liễu Đôi nữa và người ta đã quên đi chăng? Hay tôi lầm?
Đọc những bài viết về văn hoá của nhà văn Trần Độ tôi càng thêm ngưỡng mộ ông và điều quan trọng là những vấn đề ông bàn mang tầm nhìn chiến lược về văn hoá mà lại rất cụ thể, rất chi tiết , trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ một nhà quân sự, nam chinh bắc chiến, ông trở thành nhà lãnh đạo trong ngành văn hoá, và ông say mê, cặm cụi, không mệt mỏi, không nản lòng. Không khí qua các bài viết từ thời vượt ngục Sơn La, tới hoạt động Việt Minh ở vùng Đông Anh - Phúc Yên, tới ngày toàn quốc kháng chiến ở Hà Nội, tới Điện Biên phủ và mặt trận B2 thời chống Mĩ, tới văn hoá Liễu Đôi hay Thủ Đức, Hải Hậu, giọng văn của ông đều giữ chất sảng khoái, chiết trung, thể hiện lòng dạ lúc nào cũng sục sôi đầy tâm huyết và sự mẫn cảm. Bàn bạc của ông lúc nào cũng bình dẳng, nói chuyện về văn hoá với các Bộ trưởng cùng ngành trong phe XHCN hay người nông dân ở xã Cẩm Bình, ở Liễu Đôi, ở Hải Hậu, hay chiến sĩ trong đơn vị lực lượng vũ trang ông đều một giọng tôn trọng và khiêm nhường: Biết lắng nghe và biết khiêu gợi!
Tô Đức Chiêu
Kì sau: Chuyên luận quân sự qua giọng văn của tướng Trần Độ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét