Ở trong tù có cái gian truân của cảnh ở tù. Khi tự
do rồi lại có cái gian truân của cảnh tự do. Đó là cái gian truân liên tục của
người cách mạng khi cách mạng chưa cướp được chính quyền, khi những người cách
mạng chỉ mới là những đốm lửa le lói trong đêm dày đặc, chỉ mới dựa vào vùng
ánh sáng nhỏ bé của mình mà sống, phấn đấu kiên trì, căng thẳng để sống. Mấy
ngày tự do đầu tiên của chúng tôi cũng đầy những nỗi gian truân một cách lý thú… và chúng tôi cũng đang sống trong những vùng ánh sáng ngày càng rộng lớn của
cách mạng.
Đồng chí Diện đặt kế hoạch bắt liên lạc. Trước hết là
nhờ ông cậu tìm người em giai họ của đồng chí Diện vốn là một công nhân giác
ngộ có hoạt động từ trước; nhờ anh đó qua tổ chức cơ sở báo cáo với cán bộ, để
báo cáo lên thành ủy rồi lên xứ ủy. Vì chúng tôi trốn ra không có sự bố trí
trước ở ngoài, nên xứ ủy và Trung ương thẩm tra kỹ lắm. Chúng tôi phải viết tóm
tắt báo cáo nói rõ cuộc trốn, nói rõ họ tên và ngày giờ. Sau đó Trung ương lại
nhắn hỏi lại mấy điểm để điều tra thêm, lúc đó mới được chính thức bắt liên
lạc. Chúng tôi phải chờ đợi như thế đến năm ngày. Trong năm ngày ấy chúng tôi
sống như sau:
Ông cụ cho chúng tôi ăn rất đầy đủ. Ông cụ yên trí
là chúng tôi ở trong tù ăn uống khổ cực nhục lắm, nên ông cụ thương chúng tôi
quá mà muốn bù lại cho chúng tôi chút ít. Nghĩ lại, tôi thấy chắc ông cụ tốn
kém về chúng tôi mấy ngày đó nhiều lắm. Ông cụ cho uống bia, cho ăn bánh rán, cho
ăn thịt lợn luộc, thịt gà luộc, v.v… Chúng tôi nhớ lại khi còn ở trong tù Hỏa Lò,
những lúc quá thiếu thốn, cực khổ, chúng tôi chỉ ngồi bàn với nhau những món ăn
hết sức thú vị, cầu kỳ để cho đỡ thèm. Có một anh, cứ theo dõi các cuộc trao
đổi như vậy, thu thập giấy gói thuốc lào, ghi chép lại các món ăn mà thành ra
một cuốn sách dày đến hơn mấy trăm trang. Tôi nhớ nhất có một anh gợi nên một món
ăn đầy hình ảnh đầy hương vị. Anh ta ước thế này: Khi nào ra khỏi nhà tù, anh ấy
sẽ kiếm một đùi lợn luộc thật ngon, chuẩn bị một con dao thật sắc, một món muối
hạt tiêu thật ngon, rồi cứ thế ngồi tự tay xẻo từng miếng một mà ăn một mình
cho thật hết. Tôi cứ tưởng như đó chính cũng là mơ ước của tôi.
Bây giờ, trước sự chăm sóc của ông cụ, tôi không còn
nghĩ gì khác nữa. Tôi cảm thấy quá thỏa mãn, mà còn mải nghĩ đến những ngày
hoạt động sắp tới… Nhưng khổ thay, mấy ngày đó tôi lại bị đi kiết lỵ lại.
Chúng tôi ở trong một gian buồng nhỏ ngay cạnh đường
đi có một cửa sổ nhỏ. Do đó chúng tôi như ở trong một cái cũi. Chúng tôi có một
cái gường, ban đêm thì ngủ ở đó, nói thì chỉ nói thầm. Có một cái thúng tro để ở
góc buồng để đái và ỉa. Đêm lại có người đi đổ cho.
Nhưng rồi năm ngày nằm gầm gường hết sức nóng ruột
và bức bối đó cũng đã qua đi. Dù cho mấy ngày ấy có lẽ còn tù túng hơn là những
ngày nằm trong các gian nhà tù ở Sơn La, nhưng nó có cái thú vị của hy vọng, của
nóng ruột, của chờ đợi, lại là ở ngay bên cạnh những người thân thiết, nghe
được những tin tức của cuộc sống bên ngoài đang sôi nổi, tai được nghe các thứ
tiếng của cuộc sống bình thường của xã hội.
Chúng tôi nhận được tin nhắn của anh H. lúc ấy là cán bộ của Trung ương có đi về Hà Nội và cũng quen biết chúng tôi. Anh H. nhắn chúng tôi một buổi sáng sớm ra gặp anh ở con đường gần Cầu Giấy để anh ấy đưa đi. Chúng tôi mừng lắm. Chúng tôi từ biệt cụ chủ nhà và sắm sửa ra đi. Sáng sớm hôm đó, trời còn tối, chúng tôi đã rời căn nhà nhỏ đó ra đi. Nhưng ra đi, chúng tôi cũng gặp bao nhiêu khó khăn. Bước ra đường, chúng tôi bâng khuâng như là đi vào những nơi xa lạ lắm. Chúng tôi chưa có quần áo gì khác hơn, mỗi người lại đi một đôi guốc lẹp kẹp, có lẽ trông nó không ra làm sao. Đầu tóc chúng tôi đã rậm lắm rồi, tóc đâm chờm xuống cả mang tai, nhưng chưa có dịp nào đi cắt tóc cả. Lại thêm bệnh kiết lỵ của tôi tái phát. Khi sáng rõ thì chúng tôi đến chỗ hẹn. Bà con nông dân ở khu vực này đã đi làm đồng. Tôi lại bị đi ngoài, phải ngồi lâu quá. Anh Diện thì đi đi lại lại chờ tôi ở đường.
Bỗng chúng tôi nghe những câu nói lạ tai:
- Tiên sư bố nó, chỉ chờ mà ăn sẵn của người ta.
- Của ấy cứ phải cho nó vào ăn cơm nắm Hỏa Lò, nó cứ vờ vờ ngồi thế kia rồi vào đớp của người ta đấy.
- Cho nó ra chợ…
- Sao lại cho nó ra chợ?
- Ấy ở chợ hôm qua người ta chém mấy thằng ăn cắp đấy mà.
Thế là chúng tôi biết rõ những điều họ nói đó nhằm vào ai rồi. Tôi biết không thể ngồi lâu được nữa và có thể có những nguy hiểm bất ngờ. Vì trông tướng mạo chúng tôi với đầu tóc và quần áo quá khác thường, người ta nghi chúng tôi là ăn cắp. Chúng tôi tụt guốc ra cắp nách, cố lấy dáng điệu tự nhiên đi cho khuất nơi nguy hiểm này…
Một lúc sau chúng tôi gặp anh H. Từ đó anh Diện và tôi chia tay mỗi người đi một ngả.
Không biết đi thế nào, tôi quên mất rồi, chỉ biết là
sau đó tôi gặp chị Sáu. Chị người bé nhỏ, nhưng cử chỉ hết sức nhanh nhẹn, tháo
vát. Gặp tôi, chị gọi ngay là “cậu”, tôi cũng gọi chị là chị và cũng có cảm
giác thú vị như gặp một người chị hiền vậy. Chị có vẻ rõ rệt một người buôn bán
ngược xuôi, chị tất tưởi trong chiếc áo dài nâu thắt vạt rất khéo, gọn và lịch
sự. Tôi còn khâm phục chị ở chỗ là chị rất lắm người quen, gặp ai chị cũng chào
hỏi, tôi cũng phải chào theo; thỉnh thoảng có người nhìn tôi có vẻ tò mò thì
chị lại đon đả giới thiệu:
- Ấy hôm nay đưa cậu nó mới ở ngược về, sang bên
sông chơi một chút. Ở trên ngược về chả biết ăn mặc gì cả, cứ lôi thôi như anh
thua bạc ấy.
Đi một lúc chúng tôi đến bờ sông Hồng, nơi tiếp giáp
giữa Hà Đông và Phúc Yên (vùng Chèm).
Khi còn đang ngồi ở đò sang ngang, nhìn sang bên kia sông tôi hơi chột dạ, vì thấy trên bờ vắng có một người mặc áo dài thâm, quần trắng, che ô đi đi lại lại. Nhưng tôi hoàn toàn tin tưởng vào chị Sáu, vì tôi chắc chị Sáu nắm chắc mọi tình hình ở đây, tôi thấy chị vẫn thản nhiên vui vẻ nên lại yên tâm.
Lên đến bờ, thì tôi càng vui sướng vì chính người che ô kia là đồng chí đi đón chúng tôi. Đồng chí người nhỏ nhắn, trán cao, da trắng, chào chúng tôi, hỏi qua loa vài câu, rồi dặn chị Sáu mấy điều. Sau đó chúng tôi chia tay. Tôi yên trí đó là một đồng chí địa phương, chắc là một hương sư hay một trưởng bạ giác ngộ trong làng đó. Chị Sáu dẫn tôi vào một làng ở Hải Bối (nhân dân gọi là làng Bỏi) - gọi là cơ quan nằm chờ (như là trạm trú xá của ta ngày nay vậy). Tôi đang chờ đợi là đến nhà một đồng chí hoặc một gia đình cảm tình, giác ngộ cách mạng, ở đó tôi sẽ sống một cách thoải mái, tự do vài hôm, tự đi nói chuyện về các chuyện cách mạng, sống như trong gia đình mình vậy, như trước đây tôi đã từng sống, tôi nhớ lại biết bao gia đình trước đây tôi đã ở hồi trước khi vào tù. Nhưng chị Sáu dẫn tôi đến lại giới thiệu một cách tự nhiên với một cung cách khác hẳn trí tưởng tượng của tôi:
- Gửi các cụ “cậu” nó vài hôm. “Cậu” nó mới ở ngược
về, ở đây vài hôm chờ ông Cả đấy, các cụ ạ…
Chị lại dặn tôi là: “Không có tuyên truyền gì cả…
Vì gia đình này không biết gì đâu”. Tôi hỏi gặng nữa. Chị chỉ cười và bảo:
“Thôi, “cậu” cứ biết ở đây vài hôm cái đã”. Thế rồi chị bỏ đi. Thế là tôi bơ vơ
và lo lắng hết sức, không biết xoay xoả ra sao. Tôi bèn giả ốm để nằm trong
buồng và để tránh những đối đáp nguy hiểm. Thế mà tôi lại ốm thật. Vì tôi tiếp
tục đi lỵ.
Gia đình này có hai ông bà già. Ông cụ làm ruộng, bà
cụ bán hàng cơm ở ngoài chợ Bỏi. Hai ông bà có một người con trai mới độ mười
sáu, mười bảy tuổi, cao lớn, khoẻ mạnh, nhưng coi bộ ngốc nghếch, thật thà. Anh
ta lại có vợ rồi. Chị vợ có vẻ nhiều tuổi hơn, chị ấy xinh giòn, chăm chỉ làm
lụng suốt ngày. Cả ngày tôi nằm trong buồng một mình vì cả nhà đi vắng. Tối đến
tôi ra ngồi uống nước với ông cụ. Ông cụ to lớn, khỏe mạnh, ít nói. Vợ chồng
anh con thì như kiểu sợ người, chỉ ngồi dưới bếp. Tôi được cái tên là “ông
Hai”. Bà cụ thỉnh thoảng hỏi thăm sức khoẻ tôi và hỏi bao giờ ông Cả về. Tôi
không biết vở kịch chị Sáu sắp xếp ra sao, nên chỉ trả lời bâng quơ, ba phải. Tôi
đi lỵ ngày càng nặng. Tôi tìm một cách chữa riêng của tôi: nhịn cơm mấy bữa rồi
ăn cơm muối.
Số là hồi ở Hỏa Lò, một lần tôi bị phạt ở trong xà-lim
một tháng. Lúc đó tôi cũng bị đi lỵ, không có cách chữa khỏi - Bị đi ngoài luôn
mà đi ra nhiều máu mũi, tôi lý luận: Nếu cứ ăn cơm, nó có phân nữa thì cứ đi mãi; nhịn quách đi, không có phân nữa thì nó không đi. Nhưng tôi nhịn hai ngày, thì
càng đi tợn và chỉ có mũi không, người mệt lả đi. Tôi lại lý luận: bây giờ ăn
cơm muối không ăn thức ăn, không có chất tanh, như vậy phân nó “lành”, nó cuốn
hết mũi đi thì khỏi. Và quả nhiên sau hai ngày ăn cơm muối tôi khỏi đi lỵ. Lần
này tôi áp dụng kinh nghiệm độc đáo đó.
Bà cụ thấy tôi không ăn cơm và biết tôi đi lỵ nên
thương tôi lắm. Cụ kho thịt nạc bảo tôi ăn, tôi cũng không ăn, mua nước mắm
ngon, tôi cũng không ăn. Cụ phàn nàn: sao lại có người lạ thế, gan góc, khắc
khổ như thế. Và do đó tự nhiên tôi được cảm tình đặc biệt của cả gia đình. Mấy
hôm sau chị Sáu trở lại, cả nhà phàn nàn với chị Sáu là tôi không chịu ăn. Chị
Sáu tất tưởi đi lấy thuốc lỵ cho tôi và nói: “Anh Toàn sắp đến để trao công
tác”. Nghe giọng chị Sáu nói đến chữ anh Toàn một cách kính trọng, tôi yên trí
anh Toàn là cán bộ quan trọng lắm, và phấn khởi chờ đợi ngày đi công tác.
Thế rồi anh Toàn đến! Anh Toàn lại té ra là anh mặc
áo dài cầm ô hôm nọ chờ tôi ở bờ sông. Tôi khâm phục cách hoạt động của các
đồng chí ở đây ghê. Vì trước đây tôi chỉ mới biết có mỗi một cách cổ điển: đi
lại thì mặc quần áo nâu rách và phải ở nhà đồng chí hoặc nhà quần chúng cách
mạng. Ở đây tôi thấy mới mẻ quá: ở nhà hàng cơm không biết đến cách mạng, đi
lại có thể ăn mặc quần áo kiểu lý dịch trong làng.
Xin nói thêm, sau này tôi trở lại đây hoạt động thì
tôi cũng vẫn “quản lý” cơ quan nằm chờ này như cũ. Và những người hay đi lại chúng
tôi hợp thành một hệ thống gia đình. Anh Sao Đỏ được gọi là “ông Cả”, là trùm của
chúng tôi. Tôi là cháu “ông Cả” nhưng được gia đình này gọi là ông Hai – Anh Toàn
cũng là “ông Cả”, v.v… Gia đình này không biết chúng tôi là hạng người gì nhưng
cùng chúng tôi đóng kịch. Che giấu cho chúng tôi dưới nhãn hiệu là một đám buôn
bè từ ngược về, là khách trọ quen. Nhưng chính họ thì cho chúng tôi là bọn làm
giấy bạc giả, và về sau lại cho là mật thám Mỹ. Vì họ bảo cứ chúng tôi đi khỏi
là lại thấy máy bay Mỹ ném bom Hà Nội, v.v… Nghĩ lại thấy ghê ghê. Họ quý chúng
tôi nhất là ở chỗ sòng phẳng, đứng đắn, nhũn nhặn biết điều. Do đó, chúng tôi
chinh phục được lòng họ một cách chắc chắn. Chúng tôi cũng tiến hành tuyên truyền,
nhưng phải nói xa xôi lắm và mãi đến đảo chính Nhật Pháp, gần khởi nghĩa, họ mới
hiểu rõ chúng tôi và trở thành cảm tình cách mạng.
Anh Toàn gặp tôi, anh hỏi:
- Anh có biết chữ không?
- Có
- Có đọc nhanh không?
- Đọc được
- Thế thì tốt lắm! Anh làm công tác thanh niên ở nông thôn thì tiện lắm.
Lúc đó tôi đen lắm, đầu tóc rợp rạp, nên trông rất
cục mịch và hợp với nông dân lắm. Thế là anh hẹn tôi là hôm sau sẽ giới thiệu
cho một đồng chí cán bộ phụ trách tôi để tôi đi nhận công tác. Tôi sướng quá,
ra chợ cắt tóc và chuẩn bị lên đường.
Lúc này tôi vẫn chưa biết anh Toàn là đồng chí Trường Chinh.
Hôm sau chị Sáu và tôi đi ra khỏi làng, đi dọc đê sông Hồng ra gốc gạo
Ba Đê. Ở đó anh Toàn giới thiệu tôi với đồng chí Kiểm (tức Ngô Thế Sơn bây
giờ). Trong khi anh Toàn giới thiệu, tôi nhìn anh Kiểm và cố nhịn cười. Vì lẽ
ra, có việc gì phải giới thiệu. Anh Kiểm chính là bạn học từ ngày còn nhỏ của
tôi. Anh là người ở làng bên cạnh làng tôi. Lúc này tôi được biết thêm anh Đệ
bắt được liên lạc với xứ uỷ rồi. Còn Lợi toét thì bị bắt lại ngay ở Hoà Bình.
Khi anh Toàn, chị Sáu trở lại, tôi và anh Kiểm mới
phá lên cười với nhau. Tôi sướng quá bá lấy cổ anh, ghé vào tai anh gọi tên
cúng cơm của anh lên chửi một câu. Anh cũng bá lấy tôi, gọi tên cúng cơm của
tôi lên chửi một câu. Chúng tôi cũng không có cách nào khác để bộc lộ tình cảm
với nhau. Chúng tôi nói bao nhiêu là chuyện với nhau. Anh Kiểm chưa hề bị bắt,
nhưng anh rất nhiều chuyến bị bắt hụt…
Ngày hôm đó chúng tôi đi một mạch từ vùng Đông Anh giáp sông Hồng lên tận làng Kha Sơn thuộc huyện Phú Bình (Thái Nguyên), có lẽ đến năm chục cây số.
Cái ngày đi đầu tiên này của tôi hết sức gian khổ. Từ trưa trở đi, tôi mệt quá, hai bàn chân rát lên như phải bỏng, hai bắp đùi đau như dần, hai bắp chân “chuột” cứ rút cứng lại. Từ lúc đau chân, tôi xin nghỉ luôn. Lúc đầu độ một, hai cây số nghỉ một lần, về sau có lẽ chỉ độ năm trăm thước lại xin nghỉ. Anh Kiểm đi khỏe quá, tôi trông thấy mà thèm. Trời đã chiều, mà hỏi anh Kiểm thì cứ thấy nói “còn độ ba, bốn cây”. Đến tối mịt hỏi lại, thấy cũng vẫn bảo “còn ba, bốn cây”. Tôi sốt ruột hỏi: “Thế ở đây, cậu có cơ sở không, cho tớ ngủ nhờ một tối, mai đi, không tớ chết đấy, không đi được nữa”. Anh Kiểm lại cười và khuyến khích tôi. Tôi cũng biết yêu cầu như thế là vô lý, tôi cũng cười, nhưng tôi cảm thấy không thể chịu đựng được nữa.
Thế nhưng dù sao thì cũng cần đi và phải đi, tôi lại
nghiến răng khập khễnh đi theo. Mỗi bước đi tôi thấy như bàn chân mưng mủ nhức
nhối sắp vỡ bục ra, hai bắp đùi như có người đánh. Tôi chịu đựng trận “đòn” vô
hình một cách dai dẳng. Cuối cùng rồi cũng phải đến. Trông thấy trước mắt một
vệt đen dài, trong đó le lói một ánh đèn như con đom đóm đỏ quạch, và anh Kiểm
bảo: “Kia rồi!”. Tôi sung sướng lắm. Nhưng không biết làm sao đường cứ như là
xa thêm.
Tôi nghiến răng nhích từng bước, mắt không rời đốm
lửa đỏ và nhẩm bụng tính: ba trăm bước nữa, hai trăm năm mươi bước nữa, hai trăm
bước nữa, v.v…
Vào đến nhà, vừa cất bước qua ngưỡng cửa là tôi bổ
nhào luôn vào một cái ổ rơm, nằm thẳng cẳng với một cảm giác “thắng lợi hoàn
toàn”… Và vừa nằm, tôi vừa chào bác chủ nhà. Đây là một cái trại nhỏ của gia
đình bác Hiếu, một người miền xuôi di cư lên lập nên. Trại chỉ có một nhà nằm
cách xa các xóm, và ở rìa một rừng thông nhỏ. Trại này là một cơ quan rất tốt của
chúng tôi. Tối hôm đó bác Hiếu và anh Kiểm pha rượu với mật ong cho tôi uống,
cho tôi ăn cháo rất ngon.
Kể từ khi nằm gầm gường ở ngõ chợ Khâm Thiên, Hà Nội mà chờ đợi liên lạc, đến khi phấp phỏng nằm ăn cơm muối ở làng Bỏi bên sông Hồng, đến nay nằm ở đây thì cái thắng lợi của cuộc “Vượt tù” của tôi được củng cố từng bước. Lúc này tôi hết sức sung sướng và nếu lúc này có bị bắt lại thì cũng là một chiến sĩ đang ở “chiến trường”, đang đấu tranh trực diện với kẻ địch, chứ không phải là một người thất thế đang lẩn trốn nữa.
Nghĩa là lúc này vị trí “chiến thắng” của tôi với bọn
đế quốc đã rõ ràng. Ngay từ hôm sau, tôi bắt tay vào công tác, tôi là một cán bộ
trong đội công tác của ATK (An toàn khu) số một (thuộc Thái Nguyên, Bắc Giang)
phụ trách phong trào một số xã…
Tháng 12 năm 1962
(Trích Trần Độ tác phẩm, tập II, Nxb Hội Nhà Văn, 2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét