Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2022

Khóc anh Hoàng Văn Thụ


Hồi ấy đội công tác giúp việc Trung ương có anh Phong, chị Sáu, chị Cương, tôi và vài đồng chí nữa. Một buổi trưa, tôi đi công tác về nhà anh Hợi ở làng N.G. một “trụ sở cơ quan” mà anh Toàn (tên bí mật của đồng chí Trường Chinh lúc đó) hay hẹn gặp chúng tôi. 

Đó là một căn nhà lụp xụp, không cửa không ngõ, không sân. Chỉ có mấy bức phên rách che phía mặt trước. Thế nhưng mỗi lần về đấy chúng tôi đều cảm thấy vui. Các cháu nhà anh Hợi rất ngoan, anh chị Hợi lại vui tính.

Hôm ấy, trên đường về, trong lòng tôi cũng chờ đón những điều vui vẻ như mọi khi. Nhưng vừa bước đến cửa, tôi cảm thấy một không khí buồn đến lạnh người. Chị Sáu gục đầu trên bàn thờ bụi bặm. Chị Cương xoài người bên đống thúng mủng rách, khóc nức nở. Ngó vào bếp, anh chị Hợi cũng đang sụt sịt. Không thấy anh Toàn đâu, ngó vội vào buồng, tôi thấy: anh đang ngồi vê vê một tờ giấy nhỏ, mắt đỏ hoe. Tôi rón rén để nón vào một góc nhà, tháo tay nải trên vai xuống. Chị Sáu ngước nhìn tôi buồn bã. Tôi khẽ lại gần. Chị gắng gượng nói được hai tiếng “Anh Lý…”, rồi lại gục đầu nức nở. Tôi hiểu. Lòng tôi thắt lại. Tự nhiên tôi bồn chồn, thương tiếc, xót xa, căm giận, nhưng nghiến răng cố trấn tĩnh ngồi xuống chõng.
Tòa án binh của đế quốc Pháp đã tuyên bố tử hình anh Lý. Hồi đó tôi chưa được gặp anh, chỉ biết anh là một đồng chí ủy viên trung ương. Từ khi anh bị bắt, anh Toàn, chị Sáu và rất nhiều người đều nhắc đến anh, lo cho anh, đều có ý muốn tìm mọi cách cứu anh. Ai cũng mong có ngày còn gặp anh. Vài hôm sau tôi mới biết anh Lý chính là anh Hoàng Văn Thụ. Tin anh bị giết đã làm mọi người xúc động mạnh mẽ. Chưa hề được gặp anh mà tôi cũng cảm thấy một nỗi đau xót, thương tiếc cứ như nghe tin người ruột thịt mất vậy.

Mấy hôm sau, phải đi công tác qua các làng, tôi thấy ai cũng hỏi chuyện anh Lý và đều khóc. Khi đến nhà anh Thu, anh Thu đẩy tôi vào một chái, chỉ vào một bàn thờ nho nhỏ, trên có bày bài vị. Mấy nén hương cháy nghi ngút… Tôi đang ngơ ngác nhìn, thì anh Thu nói:

- Bà cụ nhà tôi đã biết tin anh Lý mất! – Anh Thu nghẹn ngào quay mặt đi.

Và cụ bảo tôi:

- Anh vái vong linh anh Lý đi! – Nói xong, cụ quay mặt về phía bàn thờ lẩm nhẩm như nói riêng với anh Lý: - Thôi, sống khôn chết thiêng, anh phù hộ cho cách mạng chóng thành công! – Cụ lấy vạt áo chấm mắt sụt sịt và lặng lặng bước ra.

Trước bàn thờ tôi đứng cúi đầu mặc niệm, lòng bùi ngùi thương tiếc. Hình ảnh một người quắc thước, thông minh đại để như anh Toàn, cứ hiện lên trong đầu óc tôi ngày một rõ hơn… Tôi vừa ngậm ngùi, vừa thấy hăng lên, như được truyền thêm sức mạnh, một niềm tin lớn, tin vào những con người tài đức của Đảng, tin vào quần chúng, vào cách mạng. Tôi thầm hứa với anh Thụ: “Chúng tôi sẽ trả thù cho anh!”.

Hôm sau, anh Toàn bảo tôi:

- Anh Lý là một người sáng lập báo “Cờ giải phóng” (cơ quan của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương lúc đó). Báo nên có một bài khóc anh. Một bài thơ thì càng hay!

Tôi im lặng không nói. Nhưng tôi bắt đầu nghĩ và cố gắng thực hiện ý kiến của anh Toàn. Bài thơ này hồi đó được nhiều người thuộc. Có người đã chép và đem dán ở ngay trường bắn Tương Mai, nơi đế quốc đã xử bắn anh Hoàng Văn Thụ.

Tiếng súng thét, anh Hoàng Văn Thụ
Thân đổ nghiêng máu đỏ tuôn tràn
Pháp trường ảm đạm màu tang
Cây rung hạt lệ khóc trang anh hùng.
Mười lăm năm vẫy vùng ngang dọc
Anh đã vì dân tộc hy sinh
Phong trần dầu dãi đầu xanh
Trán nhăn tư lự, thể tình thương đau
Mắt anh đã say màu lý tưởng
Đường anh đi, không lượng gần xa.
… Tám năm xa nước, xa nhà
Đời anh bao cảnh phong ba dạn dày
Cùng đồng chí ra tay chèo chống.
Anh đưa thuyền vượt sóng trùng khơi.
Bàn tay cứng cáp đâu rồi?
Con thuyền cách mạng bùi ngùi xót thương.
Anh kiêu hãnh giữa trường tra tấn
Dù gân run máu cạn không phai.
Dập vùi chớp điện, mưa roi
Quân thù hằn học, anh cười khinh khi
Gan chiến sĩ sá gì sấm sét
Bước đấu tranh, khí tiết quang vinh.
Ba mươi tám tuổi, đời anh
Tắt trong một buổi bình minh khói mờ.
Thế là hết, bên bờ tất thắng.
Anh Thụ ơi! đời vắng anh rồi!
Kìa trông mây vẩn ngang trời,
Để tang chiến sĩ ngậm ngùi không bay.
… Hỡi đế quốc ! một bầy ác nghiệt
Tay nhuốc nhơ nhuộm huyết sôi nồng,
Của người chiến sĩ anh hùng
Sa cơ để nổi sóng lòng muôn dân,
Bay những tưởng dẹp tan uất hận.
Nhưng mà không! Gươm vẫn đang mài,
Tội bay chồng chất ngất trời,
Tha làm sao được, bão đời đang lên!
Anh Thụ ơi! Kìa xem muôn vạn
Lớp hùng binh ngạo nghễ tưng bừng,
Tuốt gươm thề thốt vang lừng
Gương Hoàng Văn Thụ ta cùng noi theo.
Cờ khởi nghĩa bay reo trước gió,
Đoàn quân đi cây đổ núi rung
Xông pha rửa nhục non sông
Và cùng rửa hận Anh hùng Việt Nam”.

Thác Liên Khương, Đức Trọng, Lâm Đồng. Ảnh: Trần Độ
Sau đấy ít lâu, một buổi sáng tôi đi công tác với anh Toàn. Trên đường đi, thấy anh không vui, tôi cũng yên lặng đeo khẩu súng lục giấu trong người, đi trước. Bỗng anh đi kịp tôi, bảo:

- Anh đọc cho tôi nghe bài thơ “Khóc anh Hoàng Văn Thụ” đi!

Tôi đọc được mươi câu, anh Toàn ngắt lời:

- Thôi, thôi, đừng đọc nữa!

Và anh xúc động kể lại cho tôi nghe nhiều kỷ niệm giữa anh và anh Hoàng Văn Thụ trong những ngày cực kỳ gian khổ, thiếu thốn và nguy hiểm hồi những năm 1940 – 1941. Những kỷ niệm và câu chuyện về Anh, cuộc đời và lý tưởng của Anh, lòng trung thành và tính kiên định cách mạng ở Anh… tất cả cứ như hòa hợp lại với nhau thành một nguồn ánh sáng vừa soi rọi tâm trí tôi, vừa thúc đẩy tôi tiến tới theo bước chân Anh và những người như Anh.

(Trích Trần Độ tác phẩm, tập II, Nxb Hội Nhà Văn, 2012)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét