Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2023

Vài kỷ niệm khó quên


Đầu năm 1965, tôi và anh Tấn đi chỉ huy chiến dịch Đồng Xoài, lại đem thực hiện cái mẹo “đánh điểm diệt viện” đã có kinh nghiệm trong kháng chiến chống Pháp. 

Chính ủy Trần Độ và Tư lệnh Lê Trọng Tấn vượt sông ra trận trong Chiến dịch Đồng Xoài, 1965

Chúng tôi chủ trương đánh cứ điểm Đồng Xoài với dự đoán địch sẽ phải đưa quân tới tiếp viện hoặc là đổ bộ bằng trực thăng. Vậy phải bố trí lực lượng ở những nơi cơ động thì mới tiêu diệt được số tiếp viện. Kế hoạch này đã thực hiện được. Nhưng Đồng Xoài đánh không dứt điểm. Bên ta đã chiếm được đến 2/3 căn cứ song bị thương vong nhiều. Tôi với anh Tấn phải xử lý tình huống này, lại như hồi đánh Pháp ở Nghĩa Lộ, quyết định dừng lại, rút về. Việc trao đổi ý kiến về vấn đề này vẫn không dễ dàng, phải hết sức trung thực trình bày suy tính mọi bề để bàn bạc thật thông suốt mới đi đến quyết định.
Trận đánh ở vùng đồn điền Thuận Lợi, phía bắc Đồng Xoài tiêu diệt được một tiểu đoàn. Sau đó chúng tôi kéo quân lên phía Bắc, vùng Bù Đốp vào đầu đợt hai chiến dịch. Đúng là chúng tôi đã phát huy được những kinh nghiệm chiến đấu. Hành quân dọc đường đều gặp những làng của công nhân đồn điền cao su. Kế hoạch là đi giữ bí mật vậy mà dân vẫn biết. Tuy vậy họ cũng biết giữ bí mật cho quân đội, không làm gì lộn xộn ồn ào cả. Đi qua các làng đó thật xúc động vì cứ như đi qua các vùng ngoài Bắc. Tiếng nói từ các nhà vọng ra là giọng Bắc, cách mắng mỏ con cái, tiếng rít thuốc lào y hệt ở làng xóm ngoài Bắc. Tôi nghĩ đến cảnh dân nghèo miền Bắc đi phu đồn điền cao su trước đây cho Pháp, đã đói khát còn lại bị bóc lột tận xương tủy, miên man nghĩ về đất nước Nam Bắc một giải, nghĩ đến lòng dân đang mong mỏi độc lập tự do mà khó nén nổi xúc động. Chuyến đó dẫn đường cho chúng tôi là ông Tư Nguyện, bí thư Phước Long. Sau này ông là Tổng cục trưởng Tổng cục cao su, một con người vui tính. Để nghỉ chân ông đã dẫn chúng tôi vào cơ quan huyện trên đường đi. Tiếp tục cuộc hành quân thì cậu dẫn đường đã bị lạc. Đưa hai người là chỉ huy và chính ủy mặt trận mà lạc đường, làm ông Tư Nguyện rất lo lắng, cậu liên lạc cũng hoảng sợ. Ông Tấn tính vốn nóng cứ giậm chân giậm cẳng. Tôi khẽ nhắc ông là bình tĩnh để tính liệu. Tôi tìm chuyện vui nói cho không khí thoải mái trở lại, cả đêm hôm đó cứ đi hoài cuối cùng cũng tới nơi. Tôi biết lần ấy người khổ tâm nhất là ông Tư Nguyện.

Bộ Chỉ huy Chiến dịch Đồng Xoài năm 1965
Tiếp theo sau là chuyến hành quân từ phía đông sang phía tây thị xã Phước Long, qua núi Bà Rá. Đợt này, ông Nguyễn Minh Châu, tư lệnh khu 6, gọi là Năm Ngà dẫn đường. Đồng chí này thì rất cẩn thận. Có đoạn đường khi đi qua, địch đóng ở đầu núi Bà Rá có thể nhìn thấy, ông dặn dò trước rất chu đáo. Cuộc hành quân ấy đi liền trong ba mươi sáu tiếng đồng hồ, toàn phải luồn rừng. Khi đoàn đến ngã ba đường cái, cách chừng trăm mét thì mấy loạt pháo nện xuống chỗ ngã ba. Là ngẫu nhiên hay vì chúng phát hiện được mà bắn thì không rõ. Ông Năm Ngà kiên quyết bắt quay trở lại. Tôi thì cho là nó bắn vu vơ, ít đợt sẽ ngừng thôi. Chả lẽ nó bắn cả đêm! Nhưng ông Năm Ngà không đồng ý đi tiếp vì nguy hiểm. Trở lại đi đường khác, lại vòng qua mấy trạm giao liên, lội lên lội xuống tới hai giờ sáng. Tính ra là đã phải đi suốt đêm hôm trước, ngày hôm sau và cả đêm hôm sau, trừ những khoảng nghỉ ngắn ngủi. Đêm hôm đó cũng tới khuya tới chỗ tập kết để đánh Bù Đốp mới dừng lại. Ai cũng mệt lả nên được nghỉ chân thì sướng như tiên. Trời mưa, ai cũng ướt sũng. Tính nhóm lửa để hơ quần áo, song vừa loé ánh sáng thì từ Bà Rá địch nã pháo ngay xuống trúng vào chỗ trú quân. Thế là phải cuốn gói, chuyển chỗ. Rút kinh nghiệm lần lạc đường vừa qua, tôi chú ý động viên cậu liên lạc bình tĩnh, nhớ đường chính xác. Có chỗ chúng tôi phải dừng lại cho cậu ấy lên trước xác định lại đường đi cho chắc chắn rồi quay lại đón đoàn đi tiếp. Tuy có chậm nhưng chắc, nhất là anh em không phải đi lòng vòng rất mệt mỏi. Khi chúng tôi đánh xong Bù Đốp thì địch ở Bù Gia Mập cũng bỏ chạy. Các anh ở tỉnh khen bộ đội thật tài. Đến chiến dịch Nguyễn Huệ thì tôi đi với ông Trà, trước đó đã có lần tôi xuống khu Tám để kiểm điểm Xuân 68, tôi đã thu hoạch được nhiều điều bổ ích. Nói là xuống đồng bằng, thực sự mới là vùng ven thôi. Các anh đóng ở đây quen, dùng nhiều từ ngữ phát sinh từ chiến đấu, phải trực tiếp và trực diện nghe thì mới hiểu nổi. Ví dụ các anh dùng từ: hai “chân”, ba “mũi” hay “ba mũi giáp công” rồi “thế hợp pháp”, v.v... Xuống đây thấy rõ các anh điều khiển cuộc chiến tranh ở đồng bằng rất chú ý đến thế hợp pháp. Đã có lúc tôi nặng lời với đồng chí bí thư khu ủy: “Đến lúc này mà các anh còn tính tới thế hợp pháp thì làm sao mà có lực lượng để tiến công, làm sao để có tinh thần tiến công được!”. Đến khi tình hình diễn biến mới thấy là các anh có kinh nghiệm sát thực tế. Dân ở đây cũng rất từng trải cuộc chiến. Cứ quân ta giải phóng xong thì địch chiếm lại. Quân ta lại đánh giải phóng, địch lại chiếm lại. Mỗi đợt như vậy địch thi hành nhiều âm mưu tàn khốc, thâm độc nên người dân rất cực khổ. Cứ mỗi lần địch quay lại được là dân phải chịu đựng gay go hơn trước. Cho nên cứ khi ta chuẩn bị đánh lớn thì dân lại hỏi: “Tụi bay chuyến này có định làm thiệt không đấy?”. Quân ta lại quả quyết với dân là làm thiệt. – “Ừ! Tụi bây muốn làm thiệt thì tụi tao sẽ làm kiểu làm thiệt. Còn tụi bây chưa làm thiệt được thì phải nói thật với bọn tao để chúng tao có cách làm phù hợp. Chứ không rồi chúng mày đánh xong lại rút đi là chết chúng tao đấy!”. Họ phân trần: “Chúng mày chỉ có một thân, một mình. Mỗi thằng một khẩu súng và cái ba lô đi đâu mà chẳng được. Nhưng chúng tao thì còn trâu, còn lợn, còn vợ còn con nên không đi được. Chúng tao phải bám trụ, phải có cách đối phó với địch! Chúng mày đi là địch trở lại, lúc đó chúng tao phải đương đầu, còn chúng mày đâu còn ở đây mà đương đầu với chúng!”. Nghe những lời như vậy mà thương nhân dân, phục nhân dân. Họ có kinh nghiệm sâu sát, học bao nhiêu cũng không bằng được. Trung ương Cục có nhiều lần mở các lớp huấn luyện và tôi cũng đến giảng bài. Lúc ấy tôi đã giảng về phương pháp tư tưởng, thực ra như là một thứ dạy triết học, là triết học duy vật biện chứng và triết học duy vật lịch sử rồi chế biến gọi là phương pháp tư tưởng, tức là vận dụng triết học nhận định tình hình hàng ngày cho nó dễ hiểu. Anh Hoàng Văn Thái giảng về đường lối quân sự, khi nào anh vắng thì tôi giảng thay. Lúc rảnh rỗi ngồi chuyện trò với anh em hiểu biết thêm nhiều. Anh em bảo mỗi lần lên họp nghe phân tích thì thấy tình hình sáng sủa, phấn khởi lắm! Nhưng về tới địa bàn phải đối phó với quân địch, chúng nó nhiều vũ khí tối tân, lại tàn ác không chùn tay thì thấy tối sầm lại! Nghe phân tích thì địch mỏng như “lá lúa”, cấu là đứt ngay. Còn về tới nhà thì thấy nó dai nhằng như “da trâu”, dày từng lớp, từng lớp. Sau Xuân 68 cũng cứ nhận định là thắng lợi! Thực tế thì cuối 1968 đầu 1969 địch phản công bình định cấp tốc. Các địa phương đều lâm nguy: mất dân, mất đất, du kích cũng mất chỗ đứng chân. Nhiều nơi, du kích cũng phải bổ sung bằng thanh niên miền Bắc. Không thể nào lấy được tân binh địa phương để bổ sung cho chủ lực. Nguồn nhân lực bổ sung cho du kích và bộ đội địa phương cũng không huy động nổi nữa. Tình hình thực sự là gay go. Nhưng công tác tư tưởng vẫn khẳng định Xuân 1968 là chiến thắng vĩ đại.
Lúc anh em lên họp, ngồi nói chuyện vui với nhau thì anh em bảo: “Dân họ nói rằng bây giờ cán bộ cứ lấy đũa cả cạy mồm chúng tôi đổ thắng lợi vào thì chúng tôi cũng không nuốt trôi. Vì ở địa phương cứ hàng ngày chạy địch, hàng ngày phải đối phó, hàng ngày chịu hy sinh, gian khổ ghê gớm. Sự chà sát của địch là kinh khủng. Thế mà lại cứ được nghe phổ biến là thắng lợi vĩ đại!”

Suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, tôi được sống và làm việc với các đồng chí ở Trung ương Cục miền Nam. Tuy ít hơn nhưng cũng được tiếp xúc với nhiều anh em ở các tỉnh lên học. Tôi nhận thức sâu sắc rằng trong chiến tranh yếu tố nhân dân, yếu tố con người, yếu tố chủ nghĩa anh hùng cách mạng thật là vĩ đại vô song, truyền thống đánh giặc ngoại xâm giữ lấy đất nước thật là phi thường. Tôi được biết nhiều chuyện xúc động lắm. Chuyện những con người sống với nhau đầy tình nghĩa, trung thực, thật thà, tin cậy chăm sóc nhau, lo toan cho nhau. Sau ngày giải phóng, hòa bình rồi, tôi có gặp lại những anh em cùng sống ở rừng trước đây thì cũng nhiều tâm sự phức tạp. Hết chuyện chia chác chiến lợi phẩm, đến tị nạnh công tích... Nghe đến là buồn. Lớp trẻ mới lớn nghe chuyện cũng chẳng hay gì! Mỗi lần gặp gỡ họ lại phàn nàn. Ai cũng tiếc những năm tháng ở rừng tuy gian khổ, cái chết liền kề, nhưng đối với nhau thật tình nghĩa, cuộc sống phóng khoáng nhẹ nhàng bao nhiêu! Tôi trao đổi với anh em là đáng tiếc nhưng cũng đừng xem là nghiêm trọng quá. Mỗi giai đoạn không khỏi có diễn biến về tư tưởng, tình cảm, tinh thần. Vấn đề mấu chốt là nên xem xét nó như thế nào, gạn lọc và thúc đẩy cái tích cực, hạn chế mặt tiêu cực ra sao cho phù hợp với sự vận động của sự phát triển của chiến thắng. Tôi dẫn tình hình tại chỗ để làm ví dụ. Giai đoạn đang đánh nhau thì bộ đội đánh Mỹ phần nhiều là lớp thanh niên mới lần đầu tiên ra trận. Tuổi trẻ măng, học lực cấp ba là cỡ tú tài mà hăng hái vào chiến trường chịu đựng gian khổ và nguy hiểm. Do vậy mà các má đều thương yêu như con cái trong nhà. Nhưng các chú này cũng tinh nghịch lắm nên quan hệ với dân không phải là suôn sẻ cả và nội bộ các em cũng nhiều cái nghiêm trọng, cãi nhau, đánh lộn, thậm chí bắn nhau vì ghen tuông giận dỗi... Rồi “B quay” cũng không hiếm. Chuyện tự do lấy cái bắp, quả bí của dân cũng xảy ra. So với bộ đội đánh Pháp thì không nghiêm bằng. Ngày ấy phần đông chiến sĩ đều lớn tuổi, tinh thần vì dân vì nước thật thiêng liêng. Hồi chống Pháp, tôi là chính trị viên làm công tác chính trị, đọc tài liệu về công tác chính trị của giải phóng quân Trung Quốc. Thấy có những cuộc vận động chống đào ngũ tôi cũng thấy ngạc nhiên. Tại sao quân đội cách mạng lại đào ngũ? Ở Việt Nam trong chống Pháp hầu như không có đào ngũ. Dư luận xã hội cũng không chấp nhận kẻ đào ngũ. Những trường hợp vào tề thì bị xem là kẻ phản bội. Thế mà đến chống Mỹ thì tình hình đã khác. Cho nên có một số cán bộ từng trải qua chống Pháp đã có nhận định là bộ đội chống Mỹ kém bộ đội chống Pháp, nghĩ là truyền thống quân đội bị phai lạt, sa sút đi. Trong khi ấy thì xuất hiện bao nhiêu tấm gương chống Mỹ, đánh Mỹ rất dũng cảm, rất anh hùng. Địch tiến hành chiến tranh xâm lược ở ta tàn bạo khốc liệt như thế đến cả thế giới kinh hoàng. Thế mà bộ đội, nhân dân ở mọi nơi vẫn trụ bám vững, vẫn chiến thắng vang dội, càng đánh càng thắng lớn. Ý kiến đánh giá bộ đội thế này, thế kia làm tinh thần cán bộ có biểu hiện bực dọc không vui. Trước tình hình không lành mạnh ấy, tôi phát động trong anh em cuộc tranh luận với chủ đề là: Bộ đội chống Mỹ có thua bộ đội chống Pháp không? Thua ở chỗ nào? Không thua ở chỗ nào? Cán bộ phải đánh giá lại chiến sĩ của mình. Là người chỉ huy mà không tin chiến sĩ thì nguy lắm. Cuộc thảo luận không đi đến kết luận ồn ào gì nhưng mục tiêu thì đạt tới. Cán bộ tin vào chiến sĩ của mình hơn và quân đội cũng gắn bó với dân hơn. Một việc đơn giản mà ai cũng nhận ra là trong đội ngũ không tránh khỏi có phần tử lạc hậu, có hành vi tiêu cực, và ngay trong số này cũng không phải là hỏng cả. Người lãnh đạo phải tỉnh táo và thấu suốt mới xây dựng được lực lượng của mình, trước hết là lòng tin chiến sĩ, làm chiến sĩ tin yêu mình. Cuối cuộc chiến tranh tôi mới nói đùa với anh em thế này: Nếu mà hệ thống lại từng giai đoạn thì té ra chúng mình toàn đi xuống. Bởi vì thời chống Mỹ thì không bằng thời chống Pháp. Những con người chống Pháp kém những ai hoạt động bí mật. Những con người chống Mỹ lại kém những ai chống Pháp. Còn những ai tham gia khi đã giải phóng hoàn toàn lại kém những con người chống Mỹ. Thế hóa ra dân tộc mình đi xuống à? Con người ta đi xuống à? Đặt ngược lại vấn đề như thế, tôi thấy anh em đã nghĩ lại, theo kiểu cho những tiêu cực đó cũng có thực nhưng là một mảnh của sự thật chứ không phải toàn bộ. Tóm lại nhìn toàn bộ cuộc chiến bấy giờ, khái quát lại sự hy sinh của nhân dân ta là ghê gớm lắm, con người ta đã anh dũng phi thường.

(Trích Trần Độ tác phẩm, tập II, Nxb Hội Nhà Văn, 2012)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét