(Lược ghi bài nói tại Hội nghị cán bộ Cơ quan văn hóa,
văn nghệ Trung ương nghiên cứu Nghị quyết, ngày 17-12-1987)
Ngày 28-11-1987, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã ra Nghị quyết số 05 – Nghị quyết “Đổi
mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát
huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ thuật và văn hoá phát triển lên một bước
mới”.
Từ khi Đảng ta ra đời lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn
chú trọng lãnh đạo lĩnh vực văn hoá, văn nghệ. Đường lối văn hoá - văn nghệ của
Đảng không ngừng phát triển, ngày một có hệ thống, toàn diện và hoàn thiện hơn,
thể hiện trong các văn kiện chính thức của Đảng – các chỉ thị, nghị quyết, các
bức thư của Ban Chấp hành Trung ương gửi các Đại hội văn nghệ. Gần 60 năm qua,
các Nghị quyết về văn hoá, văn nghệ của các Đại hội Đảng toàn quốc, của Ban Chấp
hành Trung ương, của Bộ Chính trị hầu hết đều nằm trong các văn kiện chung. Bộ
Chính trị, Ban Bí thư vẫn thường xuyên cho ý kiến chỉ đạo công tác văn hoá, văn
nghệ, nhưng Nghị quyết 05 là Nghị quyết riêng đầu tiên của Bộ Chính trị về văn
hoá, văn nghệ.
Trong Nghị quyết chuyên đề này, Bộ Chính trị có điều
kiện tập trung xem xét, đánh giá tình hình, định hướng cho các hoạt động văn học,
nghệ thuật và văn hoá một cách cơ bản, toàn diện, sâu sắc và cụ thể.
Xác định một loạt quan điểm then chốt của Đảng trên lĩnh
vực tinh thần, về cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá, về văn hoá, văn nghệ, Nghị
quyết có giá trị đề ra phương hướng chỉ đạo chiến lược lâu dài, đồng thời đặt
ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới hoạt động văn hoá, văn nghệ theo tinh thần cách
mạng, khoa học, chỉ dẫn những vấn đề cần kíp trong những năm trước mắt nhằm giải
phóng tiềm năng sáng tạo của văn học nghệ thuật và văn hoá.
Sự chuyển biến, phát triển của xã hội, của cuộc đấu
tranh cách mạng, trên đất nước ta trong thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
từ hơn một thập kỷ qua đã làm xuất hiện những nhu cầu và nguyện vọng mới về văn
hoá, văn nghệ. Những nhu cầu và nguyện vọng đó bắt gặp tư tưởng của Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI. Và chính sức mạnh những tư tưởng lớn của Đại hội VI – tư
tưởng đổi mới, tư tưởng dân chủ hoá – đã thúc đẩy việc cần ra đời một Nghị quyết
cơ bản của Đảng về văn hoá, văn nghệ.
Do vậy, Nghị quyết đánh dấu việc Đảng hiểu rõ và tạo điều
kiện thuận lợi đáp ứng những yêu cầu phát triển và trưởng thành của nền văn nghệ
cách mạng nước nhà. Nghị quyết ghi một cái mốc quan trọng về sự phát triển và
hoàn thiện đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng ta, thể hiện đầy đủ ý chí, quyết
tâm đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm của Đảng của giới trí thức văn
hoá, văn nghệ và nhân dân ta trên lĩnh vực văn hoá, văn nghệ dưới ánh sáng Nghị
quyết Đại hội VI.
Nghị quyết là thành quả tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo
văn hoá, văn nghệ của Đảng nhiều năm qua, biểu hiện bước trưởng thành về trình độ
lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá, văn nghệ - một lĩnh vực quan trọng, phức
tạp và tế nhị.
Giới trí thức văn hoá, văn nghệ đã có đóng góp rất
quan trọng xây dựng nên Nghị quyết của Đảng. Nghị quyết là trí tuệ của Bộ Chính
trị, của Ban Bí thư của Đảng, đồng thời cũng là trí tuệ của đông đảo các nhà văn
hoá, văn nghệ sĩ cả nước. Do thế mà Nghị quyết nâng cao được tính cách mạng và
khoa học.
Sự lãnh đạo của Đảng là một yếu tố quyết định nhất thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp phát triển nền văn hoá, văn nghệ mới của
dân tộc. Khi Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo và quản lý lại luôn luôn gắn chặt với
nhau. Công tác quản lý của Nhà nước yếu kém thì sự lãnh đạo của Đảng không thể đi
vào cuộc sống. Có dựa trên phương hướng lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước
mới có nhiều khả năng đúng đắn, mới nâng cao được chất lượng và đạt hiệu quả tốt.
Vì vậy một chủ đề nổi bật của Nghị quyết là vấn đề đổi mới và nâng cao trình độ
lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hoá. Vấn đề đổi mới được đặt ra là
do ta không thể làm theo tư duy cũ, nếp cũ. Quan niệm, cách làm cũ không còn phù
hợp với thời kỳ mới. Đổi mới lãnh đạo và quản lý đòi hỏi phải thay đổi nhận thức,
quan niệm, cách nghĩ, cách làm sao cho phù hợp với quy luật khách quan, với đặc
điểm, điều kiện cụ thể của đất nước ta trong bối cảnh thời đại hiện nay, đáp ứng
đúng những nhu cầu mới của xã hội, của văn hoá, văn nghệ. Vấn đề nâng cao trình
độ lãnh đạo, quản lý được đặt ra là do sự hiểu biết, trình độ năng lực của ta còn
bất cập với những đòi hỏi cao của giai đoạn phát triển mới. Đổi mới và nâng cao
trình độ lãnh đạo, quản lý văn hoá, văn nghệ là một nhân tố trước hết và căn bản
có ý nghĩa quyết định để phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và
văn hoá phát triển lên một bước mới.
Nhưng tự thân sự lãnh đạo, quản lý không thể làm nên
những tác phẩm văn nghệ, những giá trị văn hoá. Những tác phẩm văn nghệ, những
giá trị văn hoá, văn học, nghệ thuật phải do các văn nghệ sĩ, các nhà văn hoá sáng
tạo nên. Muốn phát huy được khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn
hoá phát triển lên một bước mới cần một yếu tố quyết định nữa là chính bản thân
các văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hoá. Vì vậy, một chủ đề rất quan trọng
trong Nghị quyết là xác định trách nhiệm của các văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động
văn hoá, của các tổ chức xã hội, văn học, nghệ thuật.
Lãnh đạo và quản lý văn hoá, văn nghệ cần phải “đổi mới
và nâng cao trình độ” để khai thác, phát huy năng lực sáng tạo của các văn nghệ
sĩ, các nhà văn hoá. Đến lượt mình, các văn nghệ sĩ, các nhà văn hoá cũng lại
phải tự chăm lo “đổi mới và nâng cao trình độ” trong lao động sáng tạo để tự phát
huy tốt khả năng của mình, sản xuất ra nhiều sản phẩm tinh thần có giá trị, có
chất lượng và hiệu quả cao.
Như vậy, nhìn chung lại chủ đề của Nghị quyết là đổi mới
và nâng cao trình độ của cả hai yếu tố quyết định nhất, tạo nên những giá trị văn
hoá, văn nghệ là lãnh đạo, quản lý và các văn nghệ sĩ, các nhà văn hoá. Nghị
quyết một mặt đặt trách nhiệm cao cho các cơ quan lãnh đạo, các cơ quan quản lý,
có giá trị chấp hành ở mọi cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước ; mặt khác đặt yêu cầu
về sự rèn luyện bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm rất cao cho tất cả anh chị em
trí thức văn hoá, văn nghệ và các tổ chức nghề nghiệp của anh chị em. Và tư tưởng
chỉ đạo bao trùm, mục tiêu xuyên suốt của Nghị quyết là nhằm khai thác mạnh mẽ
mọi tiềm năng sáng tạo, tạo ra chuyển biến thực sự mở mang nền văn hoá - văn
nghệ cách mạng, đưa văn học, nghệ thuật và văn hoá đất nước ta phát triển lên một
bước mới.
Mỗi phần của Nghị quyết giải quyết những trọng điểm khác
nhau (phần thứ nhất : nhận định tình hình ; phần thứ hai : định hướng nhận thức
lý luận về bản chất, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của văn hoá, văn nghệ trong
giai đoạn cách mạng hiện nay ; phần thứ ba : những chính sách lớn tạo điều kiện
phát huy khả năng sáng tạo trong văn hoá, văn nghệ ; phần thứ tư : những biện
pháp lớn để đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo quản lý, một số công việc cần
kíp), nhưng đều xoay quanh chủ đề và tư tưởng chủ đạo bao trùm, mục tiêu xuyên
suốt trên đây.
* * *
Về tình hình văn hoá, văn nghệ từ khi Đảng ta ra đời lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, nhất là từ sau Cách mạng tháng Tám thành công đến nay,
Nghị quyết chỉ rõ “văn hoá, văn nghệ Việt Nam đã trở thành một bộ phận khăng khít
của cách mạng, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ
quốc, xây dựng cuộc sống mới cho nhân dân”. Đó là sự đánh giá bao quát, đồng thời
là phương pháp luận để nhận định tình hình văn hoá, văn nghệ thật khách quan,
chính xác, làm nổi bật lên cái cơ bản, cốt lõi. Thành công to lớn của Đảng ta,
của nhân dân ta hơn nửa thế kỷ qua chính là ở chỗ đã làm chuyển nền văn nghệ của
dân tộc từ tình trạng xa lạ với cách mạng trở thành nền văn nghệ cách mạng, thành
“một bộ phận khăng khít của cách mạng” sự biến đổi này là biến đổi rất lớn, sự
biến đổi về chất của quá trình lịch sử văn hoá, văn nghệ đất nước ta. Từ đó mà
văn nghệ sĩ trở thành những chiến sĩ, văn nghệ không ngừng phát triển, đạt được
thành tựu vẻ vang, có giá trị lớn không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả về nghệ
thuật, “xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn hoá, nghệ thuật
chống đế quốc trong thời đại ngày nay”.
Lúc này cuộc sống đang đặt ra biết bao vấn đề mới mẻ,
chúng ta đang hăng hái phấn đấu để đổi mới, mạnh bước sang giai đoạn mới. Do tất
cả những biến động ấy, có thể có người nảy sinh tâm lý ngộ nhận quá khứ, cho rằng
so với những cái mới thì những việc, những cái chúng ta đã làm trước đấy là sai
cả, những tác phẩm văn nghệ trước đây không phải là nghệ thuật. Tình hình hiện
nay và sắp tới có những phát triển mới. Chúng ta cứ làm y như cũ là chúng ta bảo
thủ sai lầm. Nhưng đánh giá thấp những thành quả chúng ta đã đạt được là không đúng.
Phải thấy rõ những thành tựu văn nghệ trước đây của nhân dân ta là những thành
tựu đáng tự hào, văn học nghệ thuật cách mạng của chúng ta đã hoàn thành vẻ
vang sứ mệnh của nó. Thành quả văn nghệ trong hai cuộc kháng chiến là tài sản lâu
dài của đất nước ta và của cả thế giới, đặc biệt là thế giới chống đế quốc.
Từ sau khi cuộc Kháng chiến chống Mỹ kết thúc, cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng nước ta
bước vào kỷ nguyên mới. Giai đoạn mới đặt ra nhiều vấn đề. Có những vấn đề
chúng ta nhận thức được, nhưng cũng có những vấn đề chúng ta chưa nhận thức ra
hoặc chưa nhận thức đầy đủ còn phải dày công nghiên cứu, suy nghĩ. Ví dụ, tính
chất sự chuyển biến trong hơn 10 năm qua và trong nhiều năm tới là chuyển biến
thế nào ? Những cái gì chuyển biến ? Nó đặt ra những vấn đề gì ? Chúng ta cần
tiếp tục nhận thức. Đứng về toàn Đảng mà nói cũng phải đến Đại hội VI, Đảng ta
mới bắt đầu có nhận thức rõ hơn về thời kỳ chuyển biến này. Những Đại hội trước
có những phân tích sâu sắc và hay, nhưng chưa thể hiện được rõ toàn bộ
nhận thức về giai đoạn, vì vậy bên cạnh nhiều thành công, Đảng ta cũng đã có
không ít vấp váp.
Trong tình hình ấy, các mặt làm được và không làm được
quyện vào nhau rất khó tách bạch ra. Văn hoá, văn nghệ trong thời kỳ này làm được
nhiều việc, nhưng ngay trong những việc làm được ấy cũng chứa đựng những khuyết
điểm, nhược điểm. Ví dụ, nghệ thuật sân khấu những năm qua phát triển rất mạnh.
Ta có trên 150 đơn vị nghệ thuật sân khấu (cả nhà hát và các đoàn). Đội ngũ đạo
diễn, biên kịch, diễn viên rất đông. Có năm hàng trăm tiết mục mới ra đời. Nhìn
mặt ấy thật đáng vui mừng. Nhưng bên sự phát triển ấy đồng thời xuất hiện những
vấn đề : chạy theo thị hiếu tầm thường, chạy theo tiền, cạnh tranh “mua đào bán
kép” … Về văn học, có thể nói chưa bao giờ sách phong phú như bây giờ, chưa có
thời kỳ nào người đọc có nhiều loại sách để đọc như trong thời kỳ này. Đó cũng
là mặt hay. Tuy thế rất nhiều người phàn nàn rằng sách bây giờ cho ra linh
tinh, nhiều sách tình báo, vụ án, nhiều chuyện bạo lực, ly kỳ, … làm hỏng thị
hiếu và tâm hồn thanh niên, thiếu niên.
Tâm lý không ít người cứ muốn được gì là được tất, nhưng
trong thực tế cuộc sống lại thường xảy ra tình hình vừa được, vừa mất, được mặt
này đồng thời mất mặt kia. Quá trình phát triển đi lên có nhiều cái được, kèm
theo cái được ấy nhiều khi là cái mất. Trong văn hoá như vậy, trong kinh tế cũng
như vậy (ví dụ việc phát triển năm thành phần kinh tế lúc này chẳng hạn). Lãnh đạo,
quản lý phải nâng trình độ để làm sao vừa biết là ta có được, vừa biết rằng ta
có mất. Có những cái mất không thể chấp nhận, nhưng có những cái mất phải chấp
nhận. Đương nhiên chấp nhận cái mất nhưng nhìn toàn cục là ta được. Cái gì cũng
muốn được tất tần tật, không mất tí gì cả là duy ý chí. Đó là suy nghĩ kiểu nông
dân, tiểu nông. Ngay trong sự phát triển mới đã đẻ ra nhiều chuyện khổ sở cay đắng,
nhưng đừng chỉ ngồi mà cay đắng, cũng đừng quá phấn khởi cho như thế là chúng
ta chỉ có tiến lên. Phải tỉnh táo nhìn nhận tình hình.
Tình hình mới yêu cầu chúng ta có cách nhìn nhận như vậy
và điều này thật không dễ dàng gì.
Nghị quyết có nêu một nhận định rất thú vị nói lên đặc
điểm hoạt động của các văn nghệ sĩ : trong tình hình phức tạp kinh tế xã hội chưa
ổn định như vậy, những nhà hoạt động văn hoá và văn nghệ sĩ có tâm huyết, mẫn cảm
đã cùng với Đảng kiên trì tháo gỡ khó khăn, cố gắng nhận thức ngày càng sâu hơn
nội dung và ý nghĩa những chuyển động lớn đang diễn ra ở nước ta. Không phải nhận
thức một cách đơn giản mà là nhận thức sự chuyển động phức tạp, toàn diện cả về
chính trị và kinh tế, xã hội và văn hoá, đạo đức và tâm lý, tư duy và sinh hoạt.
Không chỉ nhận thức sự chuyển động riêng của nước ta mà gắn chặt với nhiều vấn đề
chung của thế giới. Nỗ lực tìm tòi phát hiện nhiều khả năng mới trong sự nghiệp
cách mạng để không ngừng tiến lên, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới của
nhân dân ta. Nhận định này cũng nói lên một phần ý nghĩa hoạt động văn hoá, văn
nghệ, tính chất hoạt động của những người làm văn hoá, văn nghệ. Đấy là một nhận
xét đồng thời cũng là một lời khen.
Khẳng định những thành tựu và những kinh nghiệm quý,
Nghị quyết cũng nói rõ những nhược điểm, khuyết điểm chúng ta phải ra sức khắc
phục.
Chất lượng và hiệu quả các hoạt động văn hoá, văn nghệ
còn thấp, tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị còn ít, tiềm năng sáng tạo chưa
được phát huy đầy đủ. Ở đây vừa nói về trách nhiệm của người sáng tạo, vừa nói
về trách nhiệm của các cơ quan lãnh đạo, quản lý.
Đáng chú ý là bệnh phô trương hình thức và bệnh công
thức sơ lược còn nặng, còn nhiều biểu hiện tiêu cực do chạy theo đồng tiền. Bệnh
phô trương hình thức và những hiện tượng tiêu cực chạy theo đồng tiền, tất nhiên
không chỉ riêng trong hoạt động văn hoá, văn nghệ mà cả trong kinh tế và trong
nhiều lĩnh vực khác. Ở lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, những căn bệnh này rất rõ. Cần
phải chống nó một cách kiên quyết.
Nghị quyết có nêu nhận định về đội ngũ những người làm
công tác văn hoá, văn nghệ từ sau năm 1975. Trước những khó khăn gay gắt về đời
sống, đại bộ phận anh chị em vẫn giữ gìn phẩm chất và kiên định quan điểm sáng
tác vì cách mạng, vì nhân dân. Được rèn luyện, thử thách trong đấu tranh cách mạng,
có vốn sống, giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đội ngũ những người làm
công tác văn hoá, văn nghệ nước ta là một đội ngũ đáng tin cậy của Đảng, của nhân
dân.
Tuy nhiên, có một bộ phận không tích cực tu dưỡng và
không tích cực nâng cao trình độ, cả trình độ chính trị và trình độ nghệ thuật,
chưa đi sâu vào thực tế, đặc biệt chưa đủ bản lĩnh để vượt qua những khó khăn,
ràng buộc để sáng tạo tốt hơn. Có một số người giảm sút ý chí chiến đấu, sống
buông thả và chạy theo những khuynh hướng
không lành mạnh trong văn học, nghệ thuật.
Người nghệ sĩ lao động sáng tạo có đặc thù của lao động
này, nên sinh hoạt không thể nào chặt chẽ, khuôn phép như người làm cơ khí chính
xác hoặc làm chính trị được. Nhưng khó phân định ranh giới chỗ nào là kiểu sống
nghệ sĩ chấp nhận được, quá mức ấy đến chỗ nào là buông thả. Chỗ này mỗi người
phải tự xác định cho mình, theo lương tâm của mình.
Một mặt thừa nhận cách sống những người nghệ sĩ phải
phù hợp với đặc thù lao động, một mặt phải nhận xét, phê phán kiểu sống buông
thả. Sống buông thả dễ trượt dài theo rất nhiều tiêu cực và cuối cùng có thể dễ
đi tới chỗ nguy hiểm là để kẻ địch lợi dụng. Kẻ địch hết sức tinh nhạy và lão
luyện về mặt này. Ta đối với văn nghệ sĩ còn nhiều hẹp hòi, hẹp hòi một cách
ngay thẳng. Còn kẻ địch đối với văn nghệ sĩ, chúng lợi dụng một cách rất thần tình.
Nếu sống không đầy đủ tinh thần trách nhiệm, để mình buông thả trong cuộc sống,
nguy hiểm trước mắt là hại đến công việc sáng tạo, nhưng nguy hiểm lâu dài có
thể có nhiều mặt khác không lường được. Thực ra bây giờ chỉ ra người nào, ở đâu thì khó, nhưng quả thực là có và chúng ta
cần nhắc nhở nhau.
Ảnh: Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Độ tại các kỳ họp của Quốc hội |
Trong Nghị quyết Đảng cũng đã tự phê bình: Bộ Chính
trị, Ban Bí thư chưa có lần nào bàn kỹ và ra Nghị quyết về văn hoá, văn nghệ,
thường khoán trắng cho một số đồng chí và chưa chú ý cải tiến phương thức lãnh đạo
văn hoá, văn nghệ, dẫn đến tình trạng giản đơn, thô thiển, thiếu dân chủ. Nghị
quyết chỉ ra khuyết điểm là nhiều cấp uỷ chưa quan tâm đúng mức lĩnh vực văn hoá,
văn nghệ. Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa bao giờ coi thường công tác văn hoá, văn nghệ, nhưng các cấp uỷ đảng có
hiện tượng chưa thật coi trọng vai trò của văn hoá, văn nghệ, ít được bồi dưỡng
về lĩnh vực quan trọng và phức tạp này. Từ đó đi tới lãnh đạo văn hoá, văn nghệ
có nhiều biểu hiện giản đơn, thô thiển, thiếu dân chủ. Cơ chế về chính sách quản
lý và đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa được chú ý đúng mức cũng
là nguyên nhân hạn chế phát huy tiềm năng sáng tạo trong văn hoá, văn nghệ.
Nghị quyết chỉ rõ những thành tựu và những thiếu sót,
khuyết điểm của các hoạt động văn hoá, văn nghệ hơn một chục năm qua gắn liền với
những ưu điểm và khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, công tác quản lý, công tác
xây dựng đội ngũ và gắn liền cả với những nhận thức lý luận trong điều kiện mới.
Nhận thức lý luận trong điều kiện mới là một vấn đề cực
kỳ quan trọng. Vì lẽ ấy, trong phần thứ hai, Nghị quyết tập trung vào vấn đề đổi
mới nhận thức lý luận về vai trò bản chất, nhiệm vụ của văn hoá, văn nghệ trong
giai đoạn cách mạng hiện nay làm cơ sở, phướng hướng cho các hoạt động và sự phát
triển văn hoá văn nghệ trong giai đoạn mới.
* * *
Về vai trò và bản chất của văn hoá văn nghệ, Nghị quyết
không nêu ra một cách có hệ thống, toàn diện mà chỉ đề cập đến một số khía cạnh,
nhưng qua đó chúng ta có thể xác định được cái cốt yếu, cơ bản của nó. Đó là những
điều khẳng định sâu sắc tính khoa học. Từ đó, đối chiếu với nhận thức trước đây,
chúng ta có thể thấy được những gì là phần khiếm khuyết.
“Văn hoá là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần
của xã hội” – đó là điều trước hết và chung nhất mà Nghị quyết đã chỉ ra, xác định
vai trò bản chất của văn hoá, văn nghệ.
Trước kia chúng ta khá quen với công thức hoá có phần
nào phiến diện vai trò của văn nghệ : văn nghệ bám sát nhiệm vụ chính trị, văn
nghệ phục vụ chính trị, văn nghệ là công cụ, là vũ khí của công tác tư tưởng.
Những cái đó hình thành và được nhấn mạnh trong giai đoạn lịch sử cách mạng trước
đây với những hoàn cảnh đặc biệt là rất cần thiết, nó đã tỏ rõ sự sắc bén và đạt
được hiệu quả tốt. Song đó chỉ là một phương diện, có thể là phương diện cần đưa
lên là chính yếu trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt nhất định. Đến nay, điều
kiện lịch sử cách mạng đã biến đổi, tiếp tục nói như vậy và chỉ nói như vậy là
không thích hợp, không thể hiện được đầy đủ bản chất và vai trò của văn hoá, văn
nghệ.
Trước hết văn hoá, văn nghệ là nhu cầu của cuộc sống
tinh thần chứ không phải trước hết là và càng không phải chỉ là công cụ, vũ khí
tư tưởng. Nhu cầu này không thể thiếu được trong đời sống con người. Đum-bát-dê
nói trong tác phẩm “Quy luật của muôn đời” : tâm hồn con người nặng hơn thể xác
gấp trăm lần, một người không sao mang nổi. Ở con người khó phân biệt đâu là đời
sống tinh thần, đâu là đời sống vật chất. Có tinh thần, có tư tưởng mới là đời
sống con người. Văn hoá là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần. Văn hoá
thể hiện trình độ phát triển chung của một dân tộc, một thời đại, một đất nước.
Nhìn vào hiện tượng văn hoá, đời sống tinh thần một địa phương ta dễ dàng xác định
ngay địa phương ấy có trình độ như thế nào.
Điều rất quan trọng nữa, Nghị quyết khẳng định là coi
văn hoá, văn nghệ là lĩnh vực sản xuất tinh thần. Đây là điều lâu nay còn mơ hồ
trong xã hội. Người ta đặt văn hoá, văn nghệ vào khu vực phi sản xuất. Thực ra,
văn hoá, văn nghệ rõ ràng là lĩnh vực sản xuất tinh thần, sản xuất ra những giá
trị tinh thần lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp cho cuộc sống
con người. Đây không phải là những giá trị chỉ để mua vui, giải trí một lúc,
cho nên Nghị quyết nói “văn hoá, văn nghệ bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ”.
Ý thứ ba Nghị quyết nhấn mạnh : hiện nay văn hoá, văn
nghệ là một bộ phận trọng yếu của cách mạng
tư tưởng và văn hoá, một động lực mạnh mẽ, đồng thời là một mục tiêu trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có tác dụng to lớn trong việc góp phần thực
hiện nhiệm vụ cách mạng, giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,
Đảng chủ trương phải xây dựng nền văn hoá, văn nghệ xã hội chủ nghĩa đậm đà bản
sắc dân tộc trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
Nhấn mạnh điều trên đây, Nghị quyết của Bộ chính trị
thể hiện sự khẳng định một quan điểm cơ bản, nhất quán từ trước tới nay trong đường
lối văn nghệ của Đảng ta, tiếp tục đặt trách nhiệm cho chúng ta phấn đấu xây dựng,
phát triển nền văn hoá, văn nghệ dân tộc ngày một gắn bó hơn với sự nghiệp cách
mạng, thành một bộ phận khăng khít hơn của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên đất
nước ta.
Song, cái mới của nhận thức lý luận về vai trò, bản chất
của văn hoá, văn nghệ trong giai đoạn cách mạng hiện nay mà Nghị quyết đem lại
cho chúng ta là ở chỗ quan điểm văn hoá, văn nghệ là một bộ phận của cách mạng
không tách rời quan điểm văn hoá, văn nghệ là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống
tinh thần, thế giới tình cảm phong phú cho con người. Một quan điểm đúng đắn như
vậy nói rõ Đảng ta coi trọng yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, lấy phục vụ con người là mục đích của mọi hoạt động của Đảng, nêu rất
cao vai trò của văn hoá văn nghệ trong sự nghiệp cách mạng đồng thời trong cả đời
sống bình thường của nhân dân. Những khía cạnh cơ bản nói lên bản chất, vai trò
của văn hoá, văn nghệ như trên hoàn toàn nhất trí với nhau, nhất trí với mục tiêu
thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của đời sống tinh thần nhân dân trong chế độ xã
hội xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm hàm chứa những ý về bản chất, vai trò của văn
hoá văn nghệ như vậy giúp uốn nắn những nhận thức thô thiển từng phổ biến trong
xã hội và trong một số cấp lãnh đạo, quản lý chúng ta.
Nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ của văn hoá, văn nghệ
trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Không trình bày một cách trực diện mối quan
hệ giữa chính trị và văn nghệ, nhưng qua việc xác định nhiệm vụ của văn hoá, văn
nghệ và việc xác định vai trò của nó như trên đã trình bày. Nghị quyết giúp chúng
ta thấy được quan điểm của Đảng về mối quan hệ này.
Nghị quyết của Bộ Chính trị yêu cầu văn học, nghệ thuật
không ngừng nâng cao tính Đảng và tính nhân dân, gắn bó với nhiệm vụ chính trị,
góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, xây dựng con người mới, đồng thời cũng thể hiện rõ tinh thần tôn trọng đặc
thù của văn học, nghệ thuật. Văn nghệ gắn bó với nhiệm vụ chính trị, góp phần
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược theo cách riêng của văn nghệ, không tức thì,
trực tiếp. Tiếng nói của văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tiếng nói trung thực, tự do, tiếng nói của sự thật,
của lương tri, phản ánh được nguyện vọng sâu xa của nhân dân và quyết tâm của Đảng,
của công cuộc đổi mới đến thắng lợi. Rõ ràng văn hoá, văn nghệ có vai trò riêng,
có nhiệm vụ chính trị của mình, có tiếng nói riêng của mình, chứ không phải tiếng
nói minh hoạ, theo đuôi. Nó độc lập và bình đẳng như các lĩnh vực khác, không
chỉ lấy việc phục vụ các lĩnh vực khác làm thành tích của mình.
Trước đây, các Sở Văn hoá địa
phương thường báo cáo một cách tự hào rằng văn hoá, văn nghệ bám sát các nhiệm
vụ chính trị nghĩa là khi nào có một chính sách mới ban hành, đợt công tác,
hoạt động nào đó nổi lên ở địa phương, văn hoá mới có nhiệm vụ. Những quan điểm
giản đơn thô thiển như vậy, tất nhiên không có trong văn bản nào nhưng thành ra
một quan niệm xã hội. Nhiều người lãnh đạo và công chúng thưởng thức văn nghệ,
thậm chí cả một số người sáng tác đã nhận thức như vậy. Giờ đây quan niệm này
phải đổi khác.
Nghị quyết đã đề cập đến việc bồi dưỡng bản lĩnh văn
hoá cho người Việt Nam. Đó là điều rất quan trọng, sau này chúng ta tiếp tục
thảo luận thêm. Nghị quyết cụ thể hoá và nhắc lại Nghị quyết Đại hội VI xác định
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta là tinh
thần yêu nước, lòng nhân ái và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Đó là ba yếu tố
quan trọng trong truyền thống tinh thần của chúng ta. Đồng thời có ý thức tự
bồi đắp thêm những phẩm chất đã có tiền đề trong lịch sử và đang hình thành
trong quá trình cách mạng của ta như ý thức dân chủ, tinh thần quốc tế và tính
khoa học. Có ý kiến cho rằng, truyền thống của ta hoàn toàn không có ba yếu tố
này. Nói như thế là cực đoan. Nghị quyết hàm ý trước đây ta cũng có những yếu tố
này nhưng chưa phát triển đầy đủ, bây giờ phải tự bồi dưỡng thêm. Đây là những
yêu cầu lớn của ta.
Nghị quyết cũng đặt cho văn hoá, văn nghệ cần giải quyết
đúng đắn những mối quan hệ dân tộc và quốc tế, truyền thống và hiện đại, tư tưởng
và kỹ thuật, trước mắt và lâu dài.
Về văn học nghệ thuật, Nghị quyết nói riêng một đoạn :
“văn học nghệ thuật là bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hoá, thể hiện khát vọng
của con người về chân, thiện, mỹ, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, nhân
cách, bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã hội,
xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa”.
Văn học, nghệ thuật thể hiện khát vọng của con người về
chân, thiện, mỹ. Đây cũng là một vấn đề cần phải nâng cao nhận thức lý luận về
nhiều mặt mới thấu hiểu được. Trước đây nghĩ về con người, ta thường chỉ nói đến
tính giai cấp, đến lập trường giai cấp. Con người trong xã hội có giai cấp nhất
định mang tính giai cấp. Văn nghệ nhất định phải có tính giai cấp, tính Đảng,
nhưng văn nghệ lại thể hiện khát vọng của con người, hướng tới chân, thiện, mỹ,
hướng tới cái thật, cái tốt lành và cái đẹp. Có những tình cảm lâu dài, vĩnh cửu
và phổ biến : hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục. Văn nghệ cần phải thể hiện và chỉ có
văn nghệ mới thể hiện được đầy đủ, sâu sắc và tinh tế những tình cảm ấy nhằm hướng
con người đến cái chân, thiện, mỹ hoàn thiện.
Nghị quyết định rõ nhiệm vụ của văn học, nghệ thuật là
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh, cổ vũ tích cực công cuộc đổi mới. Nó không
chỉ làm việc tuyên truyền mà phải góp phần giải quyết những nhiệm vụ kinh tế xã
hội do Đại hội đề ra, tham gia giải phóng tiềm năng của đất nước. Thông qua chức
năng hiểu biết khám phá, dự báo và sáng tạo văn học, nghệ thuật nắm bắt nhạy bén
cái mới, cái mầm non đang nảy sinh đồng thời phê phán không khoan nhượng những
hiện tượng tiêu cực bảo thủ và trì trệ, tạo nên những điển hình sống động về những
con người mới - những con người trung thực, dũng cảm, năng động sáng tạo. Nhiệm
vụ của văn nghệ bây giờ đặt ra là như vậy, không phải là tuyên truyền cho Nghị
quyết, giải thích các nghị quyết mà là thực hiện các nghị quyết bằng chức năng
của mình, đặc thù của mình.
Văn nghệ phải đi trước, phải xung
kích, chiến đấu một cách dũng cảm trên mặt trận chống lại bảo thủ, trì trệ,
thúc đẩy sự đổi mới. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nói : “Nếu văn
nghệ phản ánh hiện thực mà chỉ chờ hiện thực như thế nào rồi mới phản ánh thì
văn nghệ cứ đi sau ; cuộc sống yêu cầu văn nghệ phải đi trước, nhất là trong
lúc chuyển biến này”. Vấn đề chức năng (hoặc thuộc tính) dự báo của văn nghệ
còn đang tranh luận, bởi vì có người cho rằng dự báo là chức năng của khoa học chứ không phải của nghệ
thuật. Dù sao cũng cần thấy rõ, với sự nhạy cảm của nghệ thuật, nó có khả năng
dự báo và cần quan tâm phát huy khả năng này. Đó là nhiệm vụ chính trị của văn
nghệ và nếu nói văn nghệ phục vụ và phục tùng chính trị cũng là như vậy.
Nghị quyết yêu cầu văn nghệ sĩ phải là những chiến sĩ
của Đảng trên mặt trận văn hoá, văn nghệ, chăm lo bồi dưỡng thế giới quan Mác –
Lê-nin và nhân sinh quan cách mạng, đề cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước,
với nhân dân, xây dựng tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, đoàn kết, tôn trọng
tài năng và sự cống hiến của nhau. Nghị quyết còn yêu cầu khắc phục những biểu
hiện cơ hội, bè phái và lối sống buông thả. Những biểu hiện cơ hội xuất hiện tương
đối phổ biến và cũng ly kỳ, hài hước mỗi khi có biến động. Từ chỗ cơ hội dễ dàng
dẫn đến chỗ bè phái. Và một loại yêu cầu khác : yêu cầu nâng cao trình độ văn
hoá và trình độ nghề nghiệp, đổi mới tư duy. Chúng ta chưa đủ điều kiện phát
triển trình độ văn hoá chung lên cao, nhưng đã “làm người văn nghệ” đương nhiên
đòi hỏi phải có trình độ văn hoá cao, rất cao. Để đạt được điều đó không có cách
nào khác là bản thân mỗi anh chị em văn nghệ phải tích cực học tập. Chúng ta phải
cùng nhau nâng cao trình độ tư tưởng, văn hoá và nghề nghiệp. Chúng ta có đội
ngũ có tay nghề tương đối cao nhưng những tác phẩm của chúng ta so với thế giới
thì chưa nổi, tiếng vang văn nghệ của chúng ta trên thế giới còn nhỏ. Trình độ
nghề nghiệp là một mặt rất cơ bản phải quan tâm.
* * *
Phần thứ ba Nghị quyết đề ra những chính sách lớn tạo điều
kiện phát huy khả năng sáng tạo trong văn hoá, văn nghệ.
Trước đây nhược điểm của chúng ta là có đường lối, phương
hướng nhưng ít có chính sách. Đường lối lớn quá, chung quá không giải quyết được
tất cả các vấn đề cụ thể. Phải cụ thể hoá đường lối thành chính sách. Đó là một
việc cấp bách cả trong kinh tế và các mặt xã hội khác, cũng như văn hoá văn nghệ.
Điều này Trung ương đã thấm thía. Cần nhiều chính sách, nhưng Nghị quyết lần này
mới chỉ xác định những chủ trương chính sách, chứ không xác định những chính sách
cụ thể. Sau này các cơ quan Nhà nước, nhất là cơ quan Bộ Văn hoá phải cụ thể hoá
thành những chính sách cụ thể thì mới làm tròn nhiệm vụ quản lý Nhà nước của mình,
mới làm tròn nhiệm vụ thực hiện Nghị quyết của Đảng.
Có hai nhóm chính sách lớn : Chính sách kinh tế và chính
sách tự do sáng tác.
Vấn đề đầu tiên về chính sách kinh tế là vấn đề đầu tư,
Nghị quyết có những ý kiến rất sâu sắc và Bộ Chính trị thông qua cũng rất kỹ,
nhưng để đi vào cuộc sống cũng còn khó khăn. Phải xem việc đầu tư cho sự nghiệp
văn hoá để phục vụ con người và xây dựng con người mới, là một sự đầu tư không
chỉ nhằm giải quyết những nhu cầu trước mắt mà với ý nghĩa cơ bản lâu dài, nhằm
thoả mãn một cách hợp lý nhu cầu văn hoá của nhân dân, mang lại niềm vui và hạnh
phúc cho từng người và để tích luỹ vốn quý nhất cho xã hội. Đây là một ý tứ rất
quan trọng. Trước kia việc đầu tư cho văn hoá, người ta chỉ tính cho nhóm việc
giải trí, nhưng bây giờ phải thay đổi. Ý nghĩa việc đầu tư ở đây là đầu tư cho
xây dựng con người, vừa có ý nghĩa cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài. Đây là mặt
phải tạo chuyển biến lớn. Các bạn Liên Xô có ba điều từ bỏ, rất phù hợp với
tinh thần Nghị quyết của ta, trong đó có một điểm là: từ bỏ quan niệm coi đầu
tư văn hoá là đầu tư cho cái đuôi của kinh tế, là sự thừa thãi của kinh tế; phải
coi đầu tư văn hoá cũng bình đẳng như đầu tư cho các lĩnh vực khác.
Vấn đề thứ hai về chính sách kinh tế là khai thác thêm
các tiềm năng kinh tế, tài chính trong các hoạt động văn hoá, nhất là các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ về văn hoá, văn nghệ. Tiềm năng này trong hoạt động văn hoá văn nghệ rất lớn nhưng bản thân ngành
văn hoá, văn nghệ chưa khai thác được hoặc chưa muốn, chưa dám khai thác, trong
khi các ngành khác khai thác có lãi lớn, có nguồn lợi lớn, ví dụ như du lịch,
ngoại thương, các ngành hàng tiêu dùng, v.v… Chính sách khai thác này đi kèm mấy
việc : tiến tới thành lập Quỹ Văn hoá Việt Nam theo hướng huy động mọi lực lượng, mọi khả năng cả
trong nước và ngoài nước. Phải có một quỹ lớn để đóng góp vào việc xây dựng nền
văn hoá Việt Nam. Nguồn thu chủ yếu là sự đóng góp tự nguyện của nhân
dân và một số hoạt động như bán các tác phẩm giá trị, tổ chức hoạt động để thu
tiền, tổ chức sản xuất trong lĩnh vực văn hoá, văn nghệ. Quỹ văn hoá không chỉ ở
Bộ Văn hoá mà còn phải lớn hơn. Tuy mới chỉ là mong muốn nhưng chúng tôi tin rằng
Quỹ này có nhiều khả năng tồn tại và phát triển rất lớn.
Một việc cụ thể nữa là yêu cầu và cho phép các hội lập
Quỹ cũng bằng những hoạt động nghề nghiệp của mình bao gồm cả sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ, đồng thời giao cho hai quyền : quyền được kinh doanh, sản xuất
và tổ chức dịch vụ, được thu tiền ấy về làm Quỹ và quyền được chủ động chi tiêu
Quỹ đó cho sự nghiệp của mình. Hiện nay nhiều nơi đã có quyền kinh doanh, có
thu nhưng chưa có quyền tiêu, chi tiêu phải xin cơ quan tài chính. Phải tiến tới
chế độ có quyền thu và có quyền chi. Chi trong phạm vi sự nghiệp của mình. Bộ Văn
hoá có nhiệm vụ phát triển những hoạt động văn hoá nhằm tăng thu và yêu cầu Nhà
nước ổn định mức thu cho mình, tạo ra một vốn tự có để chi tiêu cho sự nghiệp văn
hoá.
Chi tiêu văn hoá là chi tiêu lớn, ngân sách Nhà nước
không chịu nổi. Vì vậy phải làm kinh tế, phải có chính sách kinh tế, phải khuyến
khích bản thân hoạt động văn hoá làm ra kinh tế, phải có chế độ lập Quỹ văn hoá,
văn nghệ để có thêm nguồn đầu tư cho văn hoá.
Một điểm nữa trong chính sách này là chính sách đãi ngộ
lao động sáng tạo. Nghị quyết nêu : “Bảo đảm cho nghệ sĩ chuyên nghiệp có thể sống
và tiếp tục sáng tạo chủ yếu bằng tiền nhuận bút”. Chỉ là chủ yếu chứ chưa hoàn
toàn. Riêng điểm này cụ thể hoá còn nhiều vấn đề phức tạp nhưng hướng là như vậy.
Tóm lại, chính sách kinh tế gồm bốn vấn đề : đầu tư, các
hoạt động kinh tế, các quỹ và chế độ thù lao.
Nhóm chính sách thứ hai, phức tạp hơn là tự do sáng tác.
Nghị quyết nêu rõ Đảng lãnh đạo cách mạng đã mang lại tự do cho nghệ sĩ và các
nghệ sĩ được thực hiện quyền tự do sáng tác của mình. Đây là vấn đề còn tiếp tục
nghiên cứu cho đầy đủ hơn. Xuất hiện hai ý kiến : một là do có Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, có tổ chức hội do mọi người sống trong một cộng đồng, một tập
thể nên không thể có tự do. Ý kiến khác cho là không cần phải đề ra quyền tự
do, vì bản thân nghệ sĩ tự do rồi, không phải thừa nhận quyền tự do của họ.
Nghị quyết xác định quyền tự do sáng tác bởi vì thời
gian qua có những hiện tượng làm cho người nghệ sĩ cảm thấy không tự do. Người
nghệ sĩ trong hoạt động sáng tạo luôn bị vướng bởi những điều cấm kỵ, luôn cảm
thấy một sự lo sợ lửng lơ trên đầu, sợ một cái gì đó rất mơ hồ, không rõ rệt.
Thực tế đã có những sự xử lý tuỳ tiện đối với vấn đề văn hoá, văn nghệ. Một tác
phẩm ra, trung ương duyệt cho phép, nhưng địa phương cấm ; ở địa phương này cho
lưu hành nhưng địa phương khác cấm ; các cơ quan có trách nhiệm đồng ý, Sở Văn
hoá, Ban Tuyên huấn, Hội chuyên ngành đồng ý, nhưng đồng chí Bí thư tỉnh uỷ không
đồng ý, cũng cấm. Vì vậy, phải định quyền tự do sáng tác thành một chính sách,
chế độ.
Nghị quyết có những quy định rất quan trọng, tác phẩm
văn học nghệ thuật không vi phạm pháp luật, không phản động, không đồi truỵ đều
có quyền được lưu hành. Bây giờ đã rõ ràng dứt khoát như vậy. Trước đây không
biết cấm những gì và không cấm những gì, ai cao hơn thì có quyền quyết định hơn,
tạo nên một tình hình, các nghệ sĩ sáng tác phải đi tìm “ô dù”, nhiều khi tìm “ô
dù” chỉ cho tác phẩm. Nay quy định những tác phẩm phản động và đồi truỵ đều bị
cấm. Khẳng định có sự cấm, nhưng tinh thần của Bộ Chính trị là “khu vực cấm” càng
hẹp càng tốt. Sự lưu hành các tác phẩm đặt dưới sự đánh giá và phán xét của dư
luận và sự phê bình của các nhà lý luận, phê bình. Đảng và Nhà nước khuyến khích
việc thảo luận, tranh luận công khai để tìm ra chân lý. Tự do sáng tác phải đi đôi
với tự do phê bình, người sáng tạo và người phê bình phải làm cho ngòi bút của
mình sắc sảo và chịu trách nhiệm về ngòi bút của mình. Một tác phẩm ra đời nên được
công khai phê bình, tự do phát biểu tranh luận. Đồng thời phải có một cơ chế đi
theo, có một tổ chức am hiểu tin cậy đánh giá, xem xét, kết luận các tác phẩm văn
nghệ, các hoạt động văn hoá khi cần thiết, đó là các Hội đồng nghệ thuật. Đây là
một vấn đề rất cần thiết để bảo đảm sự công bằng trong nghệ thuật.
Chủ trương mở rộng quyền tự do sáng tạo cho người hoạt
động văn học nghệ thuật, Đảng đồng thời xác định trách nhiệm và nghĩa vụ của văn
nghệ sĩ : “Bản chất quyền tự do sáng tác của văn nghệ sĩ nằm trong sự nghiệp cách
mạng do Đảng lãnh đạo và được quy định bởi trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người
đối với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội”.
Nghị quyết có nói thêm một số ý kiến quanh công tác văn
hoá : vấn đề chuyên nghiệp, nghiệp dư, vấn đề di tích lịch sử, vấn đề đời sống
văn hoá cơ sở, vấn đề đấu tranh chống những tàn dư văn hoá phong kiến, phát triển
quan hệ quốc tế về văn hoá. Đây là những ý kiến có tính chất xác định những
quan điểm, không phải là những hướng dẫn công tác cụ thể.
Về văn nghệ chuyên nghiệp và văn nghệ quần chúng, Nghị
quyết nêu rõ “các cơ quan văn hoá văn nghệ cần nhận thức rõ vị trí, mục tiêu,
phương thức hoạt động thích hợp của mỗi loại hình, tránh tình trạng chuyên nghiệp
hoá văn nghệ quần chúng và văn nghệ nghiệp dư, cũng như hạ thấp yêu cầu đối với
văn nghệ chuyên nghiệp, hết sức tạo điều kiện để văn nghệ chuyên nghiệp đạt được
những đỉnh cao về nghệ thuật. Đây là mấy ý có tính quan điểm. Văn nghệ nghiệp dư
cứ chuyên nghiệp hoá, muốn trở thành chuyên nghiệp, tạo ra những sự lãng phí không
cần thiết. Có những đoàn nghệ thuật của một lâm trường, một nông trường trang
phục và thiết bị sang trọng hơn một nhà hát Trung ương, đi thi để lấy Huy chương
vàng. Phương thức hoạt động của văn nghệ nghiệp dư giống như chuyên nghiệp, cái
đó không nên. Chuyên nghiệp cần phải có trình độ cao, nhưng chúng ta chưa ra công
bồi đắp và xây dựng những loại hình như vậy, để nó nhếch nhác, trở thành như
nghiệp dư và còn kém nghiệp dư. Sự quản lý như vậy là không được, phải quan tâm
cả chuyên nghiệp và nghiệp dư và phải làm cho văn nghệ chuyên nghiệp có những đỉnh
cao về nghệ thuật.
Về các di tích lịch sử, Nghị quyết xác định : các di tích,
các tác phẩm, các công trình, các tài năng và các danh nhân đều là tài sản quý
của quốc gia. Đây cũng là một vấn đề có ý nghĩa quan điểm. Vì vậy, chính sách bảo
tồn bảo tàng phải bao quát nhiều lĩnh vực.
Vấn đề đời sống văn hoá cơ sở là công việc của toàn xã
hội, tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc khoa học, những căn cứ thực tiễn được
nghiên cứu và tổng kết chu đáo. Hiện nay phong trào “xây dựng đời sống văn hoá
cơ sở” của chúng ta đã trải qua 5, 6 năm rồi, đã tổng kết và đã có những kinh
nghiệm đáng chú ý, nhưng bây giờ muốn tiếp tục phải có căn cứ lý luận và tổng kết
cao hơn nữa. Xây dựng “gia đình văn hoá mới” cũng như vậy: chúng ta đã đến lúc
phải tổng kết và phải có căn cứ lý luận cao hơn để chỉ đạo phong trào này cho tốt.
Nếu cứ lặp đi lặp lại, năm nào cũng như năm nào, tức là chúng ta dẫm chân tại
chỗ, không nâng cao được hiệu quả và chất lượng.
Nghị quyết còn có vấn đề xác định rõ quan hệ quốc tế về
văn hoá. Nghị quyết chỉ nêu những chủ trương phương hướng lớn còn công việc này
có rất nhiều việc phải làm.
* * *
Phần thứ tư Nghị quyết chỉ rõ phương hướng và những biện
pháp lớn nhằm đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn hoá văn nghệ,
cái đó là yếu tố quyết định để khai thác mọi tiềm năng sáng tạo. Tư tưởng đổi mới
và nâng cao trình độ lãnh đạo để nhằm khai thác mạnh mẽ tiềm năng sáng tạo của
lực lượng văn hoá văn nghệ, đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo và quản lý cũng
nhằm khai thác tiềm năng này. Về đổi mới lãnh đạo, lâu nay ta ít làm nên đọng lại
nhiều việc :
Nâng cao nhận thức về lý luận văn hoá, văn nghệ của toàn
Đảng. Đây là một việc lớn, bao gồm một loạt việc : các trường Đảng phải có Khoa
Văn hoá, văn nghệ để đào tạo những cán bộ lãnh đạo, bên cạnh kiến thức kinh tế
phải có kiến thức về văn hoá, văn nghệ. Trước đây ta chưa quan tâm. Có đồng chí
Bí thư tỉnh uỷ đã phàn nàn: chúng tôi lãnh đạo toàn diện nhưng chỉ biết về
kinh tế chứ không biết về văn hoá, văn nghệ, không am hiểu về âm nhạc, sân khấu
và tạo hình, v.v…
Vấn đề trên đây ở các trường Đảng là vấn đề lâu dài, còn
ngay trước mắt phải làm việc, tập huấn và tuyên truyền. Gần đây, Học viện Nguyễn
Ái Quốc thấy cần phải có Khoa văn hoá và đang thành lập. Đây là sự hứa hẹn. Bên
cạnh đó là những sinh hoạt khoa học, hoạt động của các tạp chí. Các cơ quan ngôn
luận cũng phải tham gia nhiều để tạo ra một bước tiến mới về nhận thức lý luận.
Ban Văn hoá - Văn nghệ Trung ương chủ trương ra tờ Thông tin văn hoá văn nghệ để
kịp thời thông tin về văn hoá, văn nghệ, cung cấp những kinh nghiệm và những kiến
thức cần thiết cho các đồng chí lãnh đạo địa phương và nhất là các đồng chí cán
bộ lãnh đạo, quản lý trong ngành. Ban cũng sẽ tổ chức các lớp tập huấn.
Vấn đề thứ hai là cơ chế lãnh đạo và quản lý : tổ chức
các Hội đồng nghệ thuật, gồm Hội đồng nghệ thuật quốc gia, Hội đồng nghệ thuật địa
phương và có những hội đồng lâm thời để giải quyết từng việc. Hội đồng bao gồm
những người am hiểu, có thẩm quyền và đặc biệt là có trách nhiệm. Nghị quyết xác
định những Hội đồng này có quyền hạn và có trách nhiệm chứ không phải là Hội đồng
tư vấn. Chính những hội đồng này có trách nhiệm xử lý và chịu trách nhiệm về một
vấn đề trước Đảng và trước nhân dân. Ở đây phân biệt rõ, khi vấn đề nghệ thuật
trở thành vấn đề chính trị thì cấp uỷ phải chịu trách nhiệm giải quyết, nhưng
khi vấn đề nghệ thuật là vấn đề nghệ thuật thì cấp uỷ phải tạo điều kiện cho các
Hội đồng nghệ thuật quyết định không để các cá nhân tuỳ tiện quyết định và không
để cấp uỷ cứ phải tham gia vào công việc phán xét nghệ thuật.
Về cải tiến phương thức lãnh đạo, đặc biệt chú ý đặc điểm
lãnh đạo đối với trí thức văn nghệ sĩ. Đối với giới trí thức, điều quan trọng
nhất là xoá bỏ những quan niệm hẹp hòi, không thấy tầng lớp trí thức là những
người lao động cũng được Đảng giáo dục, được rèn luyện trong thực tiễn cách mạng,
ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân, nông dân. Phải khắc phục một ý thức đã
trở thành tâm lý khá bền vững : người lao động chân tay mới là người lao động,
còn lao động trí óc không phải là người lao động. Nghị quyết có những câu quan
trọng : “trân trọng nhân cách tài năng và sự độc đáo của các văn nghệ sĩ …”, điều
này có tính chất nguyên lý chung. Đối với ta, nguyên lý này được khẳng định
trong Nghị quyết có ý nghĩa lớn. Lãnh đạo văn hoá, văn nghệ không thể lãnh đạo đồng
loạt được, làm việc với văn nghệ sĩ phải là làm việc với từng người, từ Trung ương
cho đến địa phương đều như vậy.
Việc nâng cao lý luận nhận thức, có yêu cầu về chất lượng
nghiên cứu khoa học và tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng. Trong xã hội của
ta, lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật được coi trọng hơn lĩnh vực
khoa học xã hội do những giá trị nghiên cứu được sử dụng có hiệu quả kinh tế
ngay. Trong các trường phổ thông, việc nâng cao giáo dục kỹ thuật tổng hợp, giáo
dục lao động cũng dễ dàng được coi trọng hơn. Khoa học xã hội chưa được coi trọng,
chưa thấy được những vấn đề quan hệ mật thiết giữa kết quả nghiên cứu khoa học
xã hội với công tác quản lý và hiệu quả kinh tế hàng ngày. Ở các nước vấn đề
nghiên cứu văn hoá, văn nghệ thành một lĩnh vực nghiên cứu khoa học quan trọng,
thường gọi là viện nghiên cứu khoa học về văn hoá nghệ thuật. Ở ta, tổ chức này
không được củng cố, nội dung nghiên cứu không được chỉ đạo, công trình nghiên cứu
không có và nếu có không được sử dụng đầy đủ, cán bộ không được đào tạo, … Phải
coi trọng nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật. Về điều này,
phải thực hiện câu nói của đồng chí Tổng Bí thư : “ta hãy tự cứu ta”, tức là Bộ
Văn hoá hãy tự cứu lấy mình. Đi theo đó là bồi dưỡng cán bộ văn hoá văn nghệ, đặc
biệt chú ý cán bộ lãnh đạo và quản lý. Trong văn hoá, văn nghệ, nhạc sĩ, đạo diễn,
quay phim đều có chỗ đào tạo. Riêng cán bộ quản lý không có cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng, cứ thế tự khắc thành quản lý. Cán bộ quản lý văn hoá ai cũng làm được và
khi không làm văn hoá nữa ra làm việc gì cũng được. Ngoài ra, còn vấn đề giáo dục
thẩm mỹ trong các nhà trường, vấn đề giáo dục nếp sống cho thanh niên, v.v… Đây
là một loạt vấn đề nhằm nâng cao trình độ nhận thức và lý luận, thay đổi phương
thức lãnh đạo.
Một vấn đề nữa là tổ chức. Có hai loại: tổ chức Đảng
và các tổ chức văn học, nghệ thuật. Tổ chức Đảng có quyết định từ lâu, từ 1981 ở
Hà Nội có Ban Văn hoá - Văn nghệ của thành uỷ, thành phố Hồ Chí Minh có Ban Văn
hoá - Văn nghệ của thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh, thành khác có bộ
phận văn hoá, văn nghệ nằm trong Ban Tuyên huấn, có một phó ban tuyên huấn chuyên
trách. Hiện nay Ban Bí thư cũng đồng ý cứ tiếp tục như vậy. Trước hết phải xác định
những cơ quan này là cơ quan tham mưu, giúp việc cho cấp uỷ.
Về cơ quan tham mưu này có mấy điểm cần chú ý:
- Nó là cơ quan tham mưu cho cấp uỷ, nó là một bộ phận
trong bộ máy giúp việc của cấp uỷ, nó không phải là một cấp quản lý, không phải
là một cấp trung gian ở dưới cấp uỷ và ở trên các cơ sở khác, nó thường chỉ có
việc báo cáo với cấp uỷ những tình hình nó nắm được, phân tích được và chuẩn bị
những ý kiến chỉ đạo cho cấp uỷ,
- Bộ phận văn hoá, văn nghệ nằm trong Ban Tuyên huấn vì
nó cũng là một thành phần của mặt trận tư tưởng. Nhưng không vì thế mà nó chỉ là
một phần của công tác tuyên truyền. Lĩnh vực văn hoá, văn nghệ có nhiều tính chất
riêng và là một lĩnh vực sản xuất tinh thần, cho nên công việc của nó có nhiều
nội dung khác với công tác tuyên truyền hoặc huấn luyện, giáo dục,
- Cán bộ bộ phận này phải được lựa chọn theo những điều
kiện như sau : Phải có trình độ chính trị vững vàng, có nhãn quan chính trị sắc
bén và có kinh nghiệm; phải am hiểu văn hoá, nghệ thuật, có khả năng phân tích,
nhận định, thấu hiểu được đặc thù của lao động văn hoá, văn nghệ, được tin cậy
và không bị ác cảm,
- Về phương thức làm việc có nhiều điều mới mẻ, có dịp
sẽ bàn kỹ.
Về các tổ chức các Hội văn học nghệ thuật, có mấy điểm
cần xác định như sau :
a) Có hai loại :
- Hội chuyên ngành toàn quốc của các môn nghệ thuật khác
nhau,
- Hội tổng hợp (thường gọi là Hội Văn nghệ) của từng địa
phương, hiện nay là của từng tỉnh, thành, đặc khu.
Các Hội chuyên ngành có thể phải có các “chi hội” là tổ
chức cơ sở của hội ở các địa phương.
Ở địa phương, từng cá nhân hội viên chuyên ngành, hoặc
từng tổ chức chi hội có thể tham gia làm hội viên hội văn nghệ địa phương.
b) Ở Trung ương có Ủy ban Trung ương liên hiệp văn học
nghệ thuật. Đây không phải là một Hội toàn quốc mà là một Uỷ ban. Ủy ban này có
chức năng “liên hiệp” các hội chuyên ngành và một số hội địa phương, thực hiện
chức năng “mặt trận” là thành viên trong Mặt trận Tổ quốc, làm những nhiệm vụ vận
động chính trị, chính sách và đối ngoại mà từng hội, từng ngành không có điều
kiện làm riêng, hoặc không nên làm riêng.
Ở địa phương, tuỳ tình hình có những nơi địa bàn dân cư
lớn và quan trọng, lực lượng văn nghệ đông và mạnh, cũng có thể dựa theo mô hình
tổ chức như trên, còn nói chung thì có một hội tổng hợp.
c) Các hội là tổ chức xã hội nghề nghiệp độc lập, phải
khắc phục tình trạng các hội được tổ chức và hoạt động như những cơ quan chính
quyền, những cơ quan nhà nước cấp thấp và những người phụ trách hội (thậm chí cả
hội viên) trở thành công chức văn nghệ của nhà nước.
Các hội phải được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, mỗi
hội viên có trách nhiệm đầy đủ đối với tổ
chức của giới mình, có quyền tự chủ về tổ chức, về hoạt động và về tài chính,
chỉ cần hoạt động theo khuôn khổ của Hiến pháp, luật lệ của Nhà nước là được.
Các Hội được nhà nước bảo trợ một phần, còn toàn bộ hoạt động phải tự chủ. Các
hội viên tự nguyện tham gia hội và hoạt động cho hội, để hội có đủ điều kiện
giải quyết các vấn đề xã hội cho hội viên và như vậy là tạo điều kiện thuận lợi
cho việc sáng tạo. Chức năng cơ bản và chủ yếu của các Hội là : Đoàn kết và sáng
tạo. Phải đoàn kết tốt lực lượng và thành tích cụ thể của các Hội chính là các
sản phẩm của sáng tạo, các tác phẩm.
* * *
Cuối cùng là một số ý kiến có tính chất dự báo tình hình
sau khi có Nghị quyết. Tất nhiên chỉ là dự báo thôi vì trên thực tế sẽ có nhiều
cái thú vị, nhưng cũng có nhiều điều phức tạp mà ta chưa lường hết hôm nay.
Trước hết là vấn đề tiếp thu Nghị quyết. Có thể có người
quan niệm đây chỉ là Nghị quyết riêng ngành văn hoá văn nghệ, mà trong ngành thì
cũng có thể có người cho đây chỉ là Nghị quyết cho văn nghệ sĩ, chỉ có văn nghệ
sĩ cần quan tâm. Với cấp uỷ, cấp quản lý và xã hội thì chờ xem văn nghệ sĩ làm
thế nào, còn cách nhìn văn nghệ sĩ, nhìn vào tác phẩm thì vẫn như cũ: vẫn đồng
nhất văn nghệ với chính trị.
Cho nên, có Nghị quyết thì vui, nhưng có thể có khả năng
chậm chuyển biến.
Đây là điều tất nhiên vì tập quán, thói quen nhìn văn
nghệ lâu nay.
Nhưng cần phải dứt khoát một thái độ : đây là công việc
chung của toàn Đảng chứ không phải riêng ngành văn hoá, văn nghệ. Nghị quyết này
là dành cho các cấp lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật và văn hoá, mọi người
cần hưởng ứng và chấp hành một cách tích cực, nghiêm chỉnh.
Bên cạnh đó là những diễn biến của phía người sáng tạo.
Dự kiến tình hình sẽ “bung” ra – ta tạm gọi như vậy. Khi nó bung ra và không có
cấm đoán nhiều nữa thì có thể sẽ có chuệch choạc. Có hay, có tốt, nhưng cũng sẽ
có chuệch choạc. Có thể hình dung 3 loại:
Một là, do trình độ quản lý của ta chưa giỏi, chưa tốt
không quản lý được. Có những cái rất bực mình nhưng không biết xử lý thế nào.
Thí dụ rõ nhất là chuyện vidéo. Rất lộn xộn nhưng chưa nghĩ được cách. Có điều
nhất thiết là phải nghĩ cách quản lý thật sự có hiệu quả.
Hai là, có sự lợi dụng của kẻ địch, của những phần tử
xấu về chính trị.
Việc chống tiêu cực của ta vẫn cần, nhưng kẻ địch có
thể len lỏi vào đây để phá hoại. Hoặc là trong các sáng tác văn nghệ của ta sẽ đi
vào những khía cạnh nhân bản hơn. Một số người sẽ rất tâm đắc, nhưng số khác có
thể cho là quá tủn mủn, là khai thác thị hiếu tầm thường, … Đừng lẫn lộn giữa
chống tiêu cực, phê phán những sự huỷ hoại đạo đức với “bôi đen” giữa cái gọi là
tầm thường với những vấn đề thuộc lương tri, tâm huyết của con người.
Tất nhiên phải hết sức cảnh giác, nhưng không vì cảnh
giác mà ngăn cấm quá nhiều. Không nên có tâm lý cho rằng thà không được gì còn
hơn bị mất. Chúng ta dự đoán trong vấn đề “được, mất” này còn có nhiều quan niệm
khác nhau và còn gặp nhiều khó khăn, nhưng phải cố gắng giải quyết. Phải bám vào
Nghị quyết và tin vào sự công bằng của người thưởng thức đông đảo, chân chính.
Vì như vậy, đời sống văn học sẽ sôi động hơn. Buồn nhất
là có những tác phẩm làm ra mà không được lời khen và cả tiếng chê cũng không có
nốt.
Thứ ba, sẽ có những chuệch choạc do văn nghệ sĩ chưa đủ
rèn luyện vì chưa đủ bản lĩnh và cũng do sự tất yếu của quá trình tìm tòi, tìm
tòi chưa tới.
Nói chung hầu hết văn nghệ sĩ đều thiện chí, nhưng vì
thiếu bản lĩnh và ít được rèn luyện nên người có thiện chí đó có khi lại gây ra
tác hại mà bản thân anh ta không lường trước, không mong muốn, ngoài ý định chủ
quan của anh ta. Mặt khác, đã là tìm tòi thể nghiệm thì phải có quá trình, nhất
định không tránh khỏi có lúc chưa hoàn thiện, còn những nét gợn, những tỳ vết.
Cho nên nhiệt huyết thôi chưa đủ, phải có trình độ và
bản lĩnh.
Cũng phải đề phòng một xu hướng cực đoan khác, chỉ viết
về cái xấu, về “nỗi đau” mà quên mất tính lý tưởng, vai trò khai sáng của văn
nghệ, coi nhẹ việc xây dựng những điển hình sống động về con người mới Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Với loại thứ ba này thì phải chú ý dư luận công chúng,
ý kiến của giới phê bình và sự rèn luyện của bản thân người sáng tác.
Chúng ta phải chuẩn bị tinh thần “đón chờ” những tác
phẩm “mới”, “lạ” chưa hẳn là “hay”, là “tuyệt vời” và không tránh khỏi chuệch
choạc như đã nói trên. Chúng ta phải chấp nhận sự chuệch choạc ấy để tiến lên và
chỉ trên cơ sở chấp nhận như vậy mới khơi đường cho những tác phẩm văn nghệ
hay, chân chính xuất hiện.
Ở đây có một vấn đề thuộc quan điểm, phương pháp nhận định
: khi một tác phẩm không phạm pháp, không phản động, không đồi truỵ thì có quyền
được sống. Việc không bằng lòng với tiểu thuyết này, vở kịch kia là quyền của mỗi
người, nhưng cái chính là công nhận quyền được sống của nó nếu nó không trái với
Nghị quyết. Điều này phải thành một tâm lý xã hội.
Đối với một số tác phẩm ra đời gần đây, một số người
cho là “có hại”, tỏ ý khó chịu và nghĩ rằng do vì “bung” ra mới nảy sinh những
tác phẩm như vậy. Phải đứng trên tinh thần của Nghị quyết để thấy rằng cá nhân
anh có thể không ưa thích một tác phẩm nào đó, không đếm xỉa đến nó, nhưng anh
phải công nhận quyền sống của nó. Chúng ta nói điều này với đầy đủ tinh thần trách
nhiệm của những người được Đảng tin cậy giao phó cho việc lãnh đạo quản lý công
tác văn hoá, văn nghệ. Đây không phải thái độ hữu khuynh vô trách nhiệm, mà thực
tế cuộc sống đang đặt ra trước mắt chúng ta những vấn đề không như chúng ta vẫn
nghĩ lâu nay, nhất thiết buộc chúng ta phải nghĩ thêm một nấc nữa, phải phân tích
những yếu tố tâm lý xem thử tại sao như vậy, chứ đừng vội bắt nó theo ý mình và
đừng vội đánh giá nó là hỏng.
Có một vấn đề nữa mới đặt ra đáng suy nghĩ : đó là nhu
cầu và thị hiếu của công chúng rất đa dạng, rất khác nhau, nên văn nghệ cũng không
thể chỉ có một thứ. Đó là quy luật chung. Phải chấp nhận sự phong phú, đa dạng
của văn nghệ. Có loại cần cho đại chúng, có loại chỉ dành cho công chúng được
chọn lọc. Không thể vì cái này mà phủ nhận cái kia. Hiện nay trên thực tế ở nước
ta đã xuất hiện tình hình này. Các cấp quản lý cần có thái độ xử lý đúng đắn, đặc
biệt là cần có cách nhìn nhận công bằng đối với thị hiếu và nhu cầu của công chúng,
không thể nhất loạt, không thể vì cá nhân một vài người không ưa mà vội liệt tác
phẩm vào loại “tầm thường”, “rẻ tiền”. Tất nhiên, cần phải nhận rằng hiện nay
không ít loại văn nghệ “rởm”, loại văn nghệ chạy theo tiền như Nghị quyết đã phê
phán. Nhưng chỗ này không phải lỗi ở công chúng. Mà chính là văn nghệ sĩ chúng
ta chưa đem đến cho công chúng những món ăn tinh thần đích đáng, vừa phù hợp với
sở thích của họ mà lại vừa có giá trị nội dung và nghệ thuật cao. Chúng ta đang
đứng trước sự giằng co giữa nhu cầu đại chúng và yêu cầu chất lượng nghệ thuật.
Chính trong sự giằng co này, chúng ta phải có bản lĩnh vững vàng để xử lý. Đáp ứng
nhu cầu đại chúng là một yêu cầu chính đáng, cần thiết, nhưng không cẩn thận sẽ
trượt theo xu hướng không lành mạnh, rẻ tiền. Vì vậy để thực hiện Nghị quyết,
trách nhiệm của văn nghệ sĩ là rất lớn, cần thiết phải nhắc lại một lần nữa điều
này. Anh không thể yêu cầu Đảng, yêu cầu nhân dân đối xử với anh như một nghệ sĩ
lớn trong khi anh đem đến cho họ những sản phẩm nhào nặn vội vàng. Mặt khác, các
nhà lý luận phê bình cũng cần nhập cuộc, cần phê bình những cái dở, những cái
không phải là nghệ thuật chân chính, qua đó mà bàn bạc với người sáng tác và hướng
dẫn thị hiếu cho quần chúng, để họ nhận ra cái chân, cái giả trong nghệ thuật.
Tiến tới một bước nữa, ta phải có biện pháp nhằm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
công chúng ở các đối tượng khác nhau. Giáo dục trong nhà trường, qua sách vở,
qua các phương tiện thông tin đại chúng. Xem ra như vậy, chúng ta có bao nhiêu
việc phải làm, bao nhiêu tình hình phải giải quyết sau khi có Nghị quyết ra đời.
Nhưng chúng ta tin vào sự thực hiện thắng lợi Nghị quyết cũng như tin ở tư tưởng
đổi mới đang thực sự phát huy tác dụng trong toàn bộ đời sống kinh tế xã hội đất
nước ta.
(Trích Trần Độ tác phẩm, tập III, Nxb Hội Nhà Văn, 2012)
(Trích Trần Độ tác phẩm, tập III, Nxb Hội Nhà Văn, 2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét